- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Viết từ Sài Gòn
Vẫn còn nhớ trong chuyến được mời sang Đức đọc thơ chương trình giới thiệu Thơ Việt Nam "105 Kinh độ Đông" do Viện Goethe Institut và trung tâm LiteraturWERKStatt - Xưởng Chế tác Thi ca, tháng 11.2005 (1), tôi đã bay từ Sài Gòn - Việt Nam còn nhà thơ Tô Thùy Yên từ nước Mỹ.
Tô Thùy Yên là một nhà thơ nổi tiếng của miền Nam cũ. Ông từng được nhắc như "tứ trụ" thơ Sài Gòn cũ trước 1975 bên cạnh Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đức Sơn. Một điều khá thú vị là cả bốn thi sĩ này đều có dính dáng ít nhiều đến việc công khai hoặc ảnh hưởng văn chương triết lý phương Tây và đều là những dịch giả một số tác phẩm quan trọng của các thi sĩ, triết gia, nhà văn tên tuổi có ảnh hưởng trên thế giới vào môi trường học thuật và đời sống văn nghệ miền Nam. Từ góc độ đọc và nghiên cứu thơ của mình, tôi có thể khẳng định rằng vì mê say và ảnh hưởng sâu đậm những trào lưu, trường phái triết học, thi ca, nghệ thuật phương Tây như hiện sinh, đa đa, thuyết cấu trúc... mà ở họ đã có mầm "nổi loạn" thực thụ và đúng nghĩa của một thi sĩ cấp tiến. Và trên hết là hành trình đi tìm lý tưởng, tự do, đòi hỏi một nền dân chủ đúng nghĩa khi phần lớn các gương mặt nổi trội tạm gọi là "Bắc Năm tư" đó hay các thi sĩ làm nên nhóm Sáng tạo nổi tiếng đều là những kẻ "vượt tuyến" để ly khai Cộng sản, tìm một vùng đất khai phóng và tự do! Chúng ta sẽ tìm hiểu về những tác phẩm dịch, những tác phẩm viết "cộng hưởng" và "cộng lai" của các thi sĩ nhắc ở trên ở phần dưới. Bởi cốt lõi của vấn đề cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng từ những tư tưởng nghệ thuật, văn minh của phương Tây trong thi ca mà trong chừng mực của nghiên cứu này tôi muốn chứng minh.
***
Tô Thùy Yên có thơ đăng trên báo Đời Mới từ thập niên 1950. Tôi còn tìm thấy một số truyện ngắn rất hay của ông viết từ ngày trẻ trên các tờ Giữ Thơm Quê Mẹ, Sáng Tạo... và nhiều tờ khác. Ông đã từng mở nhà xuất bản Kẻ Sĩ cùng nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ và nơi đây đã in những tác phẩm đầu tay cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Nhưng cột mốc hình thành làm nên tên tuổi sự nghiệp họ Tô có lẽ cần phải nhắc đến chính là lúc ông bắt đầu cộng tác xuất hiện trên tờ tạp chí Sáng Tạo. Rồi trở thành trong những thành viên nòng cốt bên cạnh các tên tuổi lẫy lừng văn đàn thời bấy giờ như nhà văn, thi sĩ Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng... khai sinh thơ Tự do trên văn đàn miền Nam từ năm 1960.
Sáng Tạo (2) đã nhóm một ngọn lửa khai phóng sáng tạo nghệ thuật mà thật kỳ lạ trải qua hơn nửa thế kỷ ngọn lửa thi ca ấy vẫn như một điểm sáng, vẫn là thành tố mới cháy đượm và nồng nàn chưa thấy dấu hiệu nào mờ nhạt hay tắt lửa trong ánh sáng khiêu gợi của thi ca nghệ thuật.
Và việc chúng tôi cùng được mời trong chuyến đi giao lưu đọc thơ tầm quốc tế này cũng đã nằm trong tín hiệu mới những thi sĩ luôn thao thức tìm kiếm một con đường vượt lên của Nghệ thuật Thi ca. Nhằm bảo tồn tính nhân bản và cái mới của thi ca chưa bao giờ hết mạo hiểm vì độ hấp dẫn, quyến rũ kỳ bí và không bao giờ được dừng lại!
Đó là một mùa băng tuyết lạnh lẽo. Tháng 11 gần như châu Âu bắt đầu có tuyết. Khi gặp nhau chúng tôi thật vui mừng khi thấy thi sĩ "Chiều trên phá Tam Giang" thật khỏe mạnh. Trong nhiều chương trình làm việc tại Đức, hai buổi đọc thơ chính, giao lưu, gặp gỡ bạn đọc tại hai thành phố Berlin và Munich. Rồi một số công việc liên quan khác như chụp hình trung tâm ở Gezett, đọc thơ thu âm ở Lyrikline (Studio 10715 Berlin), ông có đưa cho tôi đọc một số bản thảo thơ của ông.
Nói về chuyển ngữ thơ, những bài thơ của tôi do hai dịch giả Hồ Phạm Huy Đôn và Michael Sollorz dịch, còn thơ của anh Tô Thùy Yên do tiến sĩ Thái Kim Lan chuyển ngữ.
Trong đó "Con ngựa và chuyến tàu" là một trong những bài thơ mà ông sẽ đọc trong chương trình "105 Kinh vĩ đông" cùng với tôi. Bài này ông viết khi khá trẻ, từ những năm 16 tuổi. Và bài thơ được công bố lần đầu tiên trên tạp chí Sáng tạo. Hãy khảo sát bài thơ:
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu...
(4-1956)
Chuyến đi ấy mở ra trong tôi nhiều biên giới, nhận thức cái mới. Ví như, tại sao viện Goethe Institut và trung tâm LiteraturWERKstatt lại quan tâm đến chuyển động, những tín hiệu mới của thơ Việt? Ngay trong đêm đầu tiên giới thiệu chương trình thơ tại Berlin, lời phát biểu của bà giám đốc trung tâm LiteraturWERKstatt, Tiến sĩ Chrisstiane Lange đã cho thấy độc giả yêu thơ ở Đức luôn đi sát với diễn tiến của cái mới, những chuyện động thơ ở Việt Nam và châu Á. Thơ như đời sống xã hội luôn luôn cần những tiếng nói mở rộng và đa chiều. Xã hội thiếu vắng những tiếng nói thì thầm và đơn lẻ cũng chính là lúc lương tri và tinh thần thời đại hoặc đã chết, hấp hối và vắng mặt. Trong tiếng thầm và nhịp đơn đó cũng là lúc âm vang của thơ rõ nhất.
Bà Chrisstiane Lange cũng cho rằng "giữa Tô Thùy Yên và Nguyễn Hữu Hồng Minh thì có lẽ những lớp độc giả lớn tuổi sống ở miền Nam Việt Nam, Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông cũ sẽ biết nhiều đến thi sĩ Tô Thùy Yên và không biết đến Nguyễn Hữu Hồng Minh. Tuy nhiên, với thơ khoảng cách tuổi tác đôi khi chưa nói được gì mà chính sức sống, sự liên tưởng, gợi cảm của những bài thơ do ngôn từ hay thi pháp mang lại. Người đọc ở Việt Nam hôm nay có thể biết nhiều về thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh hơn là thơ Tô Thùy Yên. Vì thế chúng tôi chọn hai gương mặt của hai chân dung Việt Nam, một quá khứ sụp đổ của nền Cộng Hòa đã qua và một tương lai Cộng sản".
Trong nhiều lần phát biểu xen kẽ giữa buổi điều phối, bà cũng đã nhấn mạnh việc nhà thơ Tô Thùy Yên từng bị phía Cộng sản bắt ở tù tổng cộng ba lần gần 13 năm. Việc ở trong tù của ông cũng cáo chung một nền Cộng hòa bi thảm. Sau khi ra khỏi "trại cải tạo" như cách nói của Cộng sản, cuối năm 1993 thi sĩ cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư theo dạng tù nhân chính trị ở Saint Paul - Minnesota rồi chuyển về sống ở Houston, tiểu bang Texas. Trong khi đó nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh trẻ hơn, lớn lên giữa chế độ Cộng sản. Hiện sống và làm việc ở Sài Gòn. Ông được xem như một thi sĩ trẻ hàng đầu có nhiều cách tân và đổi mới thơ Việt đáng chú ý hiện nay..."
Bà cũng nói với cử tọa viện Goethe Institut và trung tâm LiteraturWERKstatt đã từng mời một số nghệ sĩ châu Á nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng trước đó. Ví như hai nhà thơ Bei Dao và Ko Un.
Nhà thơ Bei Dao sinh năm 1949, gốc người Trung Quốc. Ông còn được biết đến như một nhà bất đồng chính kiến và là một đại diện tiêu biểu của trường phái thơ ca nổi tiếng ở phương Tây tạm gọi trường phái "Thơ Sương Mù". Ông nổi tiếng nhiều lĩnh vực Thơ, Tiểu thuyết ngắn và tiểu luận văn học. Bei Dao từng nhiều lần được đề cử giải Nobel văn chương. Hiện nay ông sống và giảng dạy đại học ở Mỹ.
Còn thi sĩ Ko Un sinh năm 1933 tại Triều Tiên. Ông là người từng đổ axit vào tai để tránh nghe những "ám vọng sinh mệnh" đã chết trong chiến tranh. Như ông cho biết vẫn từng nghe "vọng lên" trong đêm kiếp người đau khổ, ai oán và điêu linh, chết bất đắc kỳ tử và không thể siêu thoát được. Sau đó ông quyết định bỏ lên núi tu mười năm rồi quyết định làm thơ để "giải quyết những vấn đề của mình". Ko Un hiện sống Hàn Quốc. Họ là hai thi sĩ nổi tiếng của châu Á từng được LiteraturWERKstatt Berlin và Goethe Institut mời đọc thơ, giao lưu và nói chuyện với đọc giả Đức trước khi giới thiệu thơ Việt Nam tiêu biểu với hai giọng Tô Thùy Yên và Nguyễn Hữu Hồng Minh.
Có cái gì nối kết từ thơ ca Việt ra với dòng chảy thế giới? Và không chỉ Thơ Việt Nam còn còn cả châu Á? Như thơ Ko Un, thơ Bei Dao, thơ Tô Thùy Yên, thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh... và thơ nhiều thi sĩ khác từng được giới thiệu tại nước Đức? Quan trọng hơn câu hỏi, từ trong sâu thẳm liệu có phải thơ Việt, thơ châu Á cũng là một thành tố của thơ thế giới? Lịch sử sâu xa xủa nó đã tiếp biến từ nghệ thuật tư tưởng và thi ca của phương Tây cộng với bản lai diện mục bản sắc của chính dân tộc mình để làm nên những thành tựu khả thể?
Câu hỏi tôi đã đặt ra từ buổi mang thơ qua nước Đức mùa đông băng tuyết, tháng 11.2005 cho đến hôm nay. Khi tôi ngồi vào bàn viết tham luận gửi cho Hội thảo mang tầm Quốc tế về văn chương Việt Nam tổ chức tại Đại học Hamburg có nhan đề "Literature, Journalism of South Vietnam (1955 - 1975) and the reception of Western ideas" tạm dịch "Văn học, Báo chí Miền Nam Việt Nam (1955-1975) và Sự tiếp nhận tư tưởng phương Tây".
Và đó cũng là cơn cớ của sự ra đời của tham luận của tôi: "Vietnam's Postwar Poetry In Retrospect How The Poetry In The Era Of The Republic Of Vietnam Was Effected By Western Literature And Art".
Tạm dịch "Nhìn lại Thơ Việt Nam Hậu Chiến: Thơ Cộng Hòa Nam Việt Có Nhiều Thành Tựu Từ Tiếp Biến Văn Hóa Nghệ Thuật Phương Tây" (tôi viết như thế để phân biệt Bắc Việt Cộng Sản - Nam Việt Cộng Hòa).
***
Điều rất đáng ngạc nhiên là các nghiên cứu thi pháp và văn học ở Việt Nam vẫn diễn ra với nhiều âm thầm trong bóng tối khi bưng bít, lũng đoạn, lúc lại cực đoan, thái quá. Về bản chất cơn thủy triều phập phồng lên xuống phù hợp với dòng tư duy chủ lưu của chế độ. Vẫn cách nói một chiều theo hướng chỉ đạo của Đảng Cộng sản là "quán triệt" là "văn hóa dân tộc", là các thành tựu đi đúng hướng "Đảng lãnh đạo thành công phù hợp với mọi thực tế". Nghệ thuật chỉ mô tả hiện thực tô vẽ khối công nông binh một thời hùng hậu bây giờ ngày càng lạc hậu. Và các công trình, đề tài nghiên cứu vẫn khó vượt qua khỏi hàng rào đe dọa, nghiêm trị của cách nhìn khô xám, trơ lệch đó. Các dấu vết ảnh hưởng của nghệ thuật, tư tưởng phương Tây vào Việt Nam không được nhắc đến hay tìm hiểu thấu đáo. Mọi nghiên cứu hú họa, dở dang, thiếu nghiêm túc, đầu tư hệt như một dấu chấm lửng chưa biết bao giờ kết thúc.
Cho đến hôm nay với nghiên cứu lý luận phê bình vẫn là thứ tư duy:
-Chỉ có một hệ tư tưởng, một học thuyết- Chủ nghĩa Marx- Lenin là thống soái, quan niệm khác đi là "suy thoái"; phê phán chủ nghĩa Marx- Lenin là "phản động";
-Chỉ có một Đảng CSVN toàn trị, đòi Tam quyền phân lập, Xã hội dân sự là "bất hảo"!
-Chỉ có những phát ngôn chính thống của Đảng và Nhà nước là chân lý, nói khác đi là "xuyên tạc, bịa đặt"...;
-Chỉ có Đúng và Sai, Tốt và Xấu, Ta và Địch… dứt khoát theo định hướng của Đảng, chứ không được nghi ngờ, "dao động". Chính điều này càng khó để đưa ra dưới ánh sáng khoa học những nghiên cứu tiếp biến, những giao lưu, va chạm, cộng hưởng của các luồng tư tưởng Đông và Tây... chưa nói đó chính là sự ảnh hưởng toàn triệt! Là nguyên nhân khởi đầu mọi cuộc vận động, đi tới của trí thức.
-Khoa học, Văn học, Nghệ thuật phản ánh hiện thực sai với định hướng của Đảng là thiếu "tính Đảng", là "nhạy cảm", "lệch lạc", cần xem xét xử lý…
Trong khi, sự thật là việc tiếp nhận các tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam diễn ra từ hơn một nghìn năm nay và đặc biệt quyết liệt ở những bước ngoặc lịch sử.
***
Và Thơ có lẽ là địa hạt có dấu vết ảnh hưởng nhiều nhất, đậm đặc nhất cái dấu ấn và dấu nối Trong - Ngoài, Đông - Tây ấy. Bước ngoặc này khởi đầu đã làm nên phong trào Thơ Mới mà bây giờ đọc lại, tôi vẫn còn thấy khâm phục thái độ dũng cảm, chấp nhận mọi tình huống của tri thức.
Cần nhắc lại trong tiểu luận "Một thời đại trong thi ca" viết cho cuốn "Thi nhân Việt Nam", một tác phẩm gối đầu về thi ca Việt, nhà phê bình Hoài Thanh là người đầu tiên đã viết: "Sự gặp gỡ phương Tây là sự biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ". Biến thiên sâu sắc đến mức, ông đã xử dụng hình ảnh "một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về vũ trụ, và có ngày ta sẽ thấy thay đổi cả quan niệm về phương Đông". Thơ Mới là kết quả biến thiên vĩ đại do sự gặp gỡ phương Tây ấy.
Hoài Thanh đã kết luận "Không thể xem phong trào Thơ Mới là chuyện lập dị do một bọn dốt nát bày đặt ra để kiếm chỗ ngồi trong làng thơ. Nó là kết quả không thể không có của một cuộc biến thiên vĩ đại bắt đầu từ hồi nước ta sáp nhập đế quốc Pháp, và, xa hơn nữa từ hồi Trịnh - Nguyễn phân tranh, lúc người Âu mới đến. Cái ngày người lái buôn phương Tây thứ nhất đặt chân lên xứ ta, người ấy đã đem theo cùng hàng hóa phương Tây cái mầm sau này đã nảy mầm thơ mới..."
Ở một đoạn khác ông viết: -"Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là một cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ". "Cho đến hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống không còn giữ nguyên hình ngày trước...".
Tuy nhiên, cũng lưu ý một phát biểu của Phan Khôi. người "chủ soái" nổi tiếng thủ cựu, cũng là người dịch Kinh Thánh đầu tiên của Phương Tây mà các cha Cố đạo truyền vào Việt Nam. Ông cũng được xem là người mở đầu cho Thơ Mới, cáo chung Thơ Cũ trước đó bằng bài thơ "Tình già" ông nói một cách hãnh diện, sung sướng như một thi sĩ đi khai tân miền đất mới, chẳng có gì phải hổ thẹn, giấu giấu diếm diếm như Hoài Thanh úp mở: "Không thể xem phong trào Thơ Mới là chuyện lập dị do một bọn dốt nát bày đặt ra để kiếm chỗ ngồi trong làng thơ", Phan Khôi tự thú, thẳng toẹt, chẳng hề đỏ mặt, sướng rân nữa là khác: -"Vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm mảnh đất mới...".
PHẦN 2. CÁC DẤU VẾT ẢNH HƯỞNG VÀO THI CA VIỆT NAM QUA BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU
Và cái mảnh đất mới ấy tiếp thu từ kinh nghiệm thẩm mỹ phương Tây mấy trăm năm tiếp tục cộng hưởng thêm luồng sinh khí mới trên từ tự do như ở miền Nam. Nhìn lại, có thể thấy rất rõ ràng người nghệ sĩ ở Hòn ngọc Viễn đông giai đoạn này viết lách bằng sự dấn thân và đam mê. Hoàn toàn không bị một vòng kim cô kiềm tỏa nào. Tác phẩm không phần lớn là "sản phẩm minh họa" như các nghệ sĩ ở miền Bắc. Vì thế, trong lĩnh vực thi ca bộc lộ rất nhiều tài năng. "Chất liệu đầu tiên hiến dâng cho kẻ sáng tạo chính là bản thân hắn" (F.Nietzsche).
Có thể thấy sự ảnh hưởng có dấu vết từ phương Tây đó trong thơ của miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 đó ở bốn địa hạt cần nghiên cứu sau:
a.Chủ nghĩa hiện sinh
b.Phân tâm học & Chủ nghĩa Cấu trúc
c.Chiến tranh & Chủ nghĩa Max.
Dấu vết từ Chủ nghĩa hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh có dấu ấn trong thơ của các nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Đông Trình... Đó là việc tiếp cận từ hàng loạt văn học hiện sinh được giới thiệu, dịch và phát hành rộng rãi ở Sài Gòn như các tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn của J.P. Sartre (Buồn nôn, Bức tường, Guồng máy), A.Camus (Ngộ nhận, Người xa lạ, Lưu đày trên quê nhà), S.de Beauvoir (Nỗi niềm kẻ bất tử, Một cái chết rất dịu dàng), F.Sagan (Buồn ơi chào mi)... các tác phẩm triết học của các triết gia hiện sinh hàng đầu như F.Nietzsche (Zarathoustra đã nói như thế, Triết lý Hy Lạp thời bi kịch, Hoàng hôn của những thần tượng...), Martin Heidegger (Hữu thể và thời gian, Siêu hình học là gì?, Thư về nhân bản chủ nghĩa, Triết lý là gì?...), Karl Jaspers (Triết học nhập môn), E.Mounier (Những chủ đề triết học hiện sinh), G.Gusdorf (Kierkegaard, người chứng của chân lý), F.Challaye (Nietzsche, cuộc đời và triết lý)…
Trở lại với hiện tượng bộ đôi hiện sinh nhà văn kiêm triết gia J.P.Sartre và A.Camus, hai ông không chỉ đưa chủ thuyết của mình nhuận nhị vào tác phẩm nhắc ở trên mà chính các nghiên cứu, phát triển triết thuyết hiện sinh của mình cũng tạo tiếng vang và ảnh hưởng giới làm văn chương nghệ thuật Sài Gòn, trong đó có các Nhà thơ không ít. Đó là các tác phẩm Văn chương là gì?, Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản (Sartre), Sứ mệnh văn nghệ hiện đại (A.Camus)...
Bên cạnh các bản dịch, chuyển ngữ từ nguyên tác, dấu ấn hiện sinh còn được phát triển, nghiên cứu trong các công trình độc lập của giới trí thức Sài Gòn giai đoạn đó. Nếu các văn bản gốc có phẩn khó đọc thì các nhà thơ bị hấp dụ, quyến rũ ảnh hưởng trường phái này có thể tiếp cận dễ dàng hơn qua "Hiện sinh" được chuyển hóa "thuần Việt" của các tác phẩm Lê Thành Trị (Hiện tượng luận về hiện sinh), Trần Thái Đỉnh (Triết học hiện sinh, Triết học Kant, Hiện tượng học là gì?), Lê Tôn Nghiêm (Những vấn đề của triết học hiện đại, Heidegger - trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương, Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger...) và các bài viết khác của các nhà nghiên cứu nổi tiếng lúc ấy như Nguyễn Văn Trung, Tam Ích, Nghiêm Xuân Hồng, Thế Phong, Vũ Đình Lưu, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Nhật Duật, Đặng Phùng Quân...
Thử đọc một vài dẫn chứng về Triết thuyết hiện sinh trong thơ một số nhà thơ ở Sài Gòn.
Với Thanh Tâm Tuyền thì không thể phủ nhận đổi mới toàn triệt thơ Tự do của ông bắt đầu trên tạp chí Sáng Tạo. Như bài thơ "Đen" của ông trích trong tập "Liên đêm mặt trời tìm thấy", Sáng Tạo xuất bản 1964.
Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng ...
Hay một bài khác như "Hãy cho anh khóc bằng mắt em / Những cuộc tình duyên Budapest" tính ảnh hưởng rõ hơn, thậm chí ông còn lấy đền tài của nước ngoài "Tuyên chiến với Cộng sản" đưa hẳn vào thơ:
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác...
(12-1956)
Hiện sinh ứng dụng qua thơ Vũ Hoàng Chương, một thái độ "Đời vắng em rồi say với ai?" và nhiều bài khác trong tập "Ta đợi em từ ba mươi năm" An Tiêm xuất bản 1969.
"Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu, Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu. Thôi rồi, tay nắm tay lần cuối, Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau..." . Và còn rất nhiều trong thơ của các tác giả khác.
Dấu vết từ Phân tâm học và Chủ nghĩa Cấu trúc
Phân tâm học gắn liền với tên tuổi của Sigmund Freud, bác sĩ thần kinh người Áo và các nhánh, các công trình phát triển sâu rộng, xuất sắc về sau như Carl Gustav Jung, Jacques Lacan, Karen Horney… Cuốn sách đầu tiên của Sigmind Freud đầu tiên được xuất bản ở miền Nam là "Nghiên cứu phân tâm học" của Vũ Đình Lưu (An Tiêm 1969).
Các cuốn đáng chú ý tiếp theo có thể kể là "Thăm dò tiềm thức" của Carl Gustave Jung một trong những môn đệ xuất sắc nhất của Freud (Đông Phương xuất bản). Cuốn này có tiếng Pháp là "Essai d'exploration de l'inconcient" có thể dịch là "Tiều luận về sự khám phá vô thức". Rất gần với cách giải thích "then chốt" của phân tâm học bởi quan niệm: Tiềm thức là một nấc trung gian giữa ý thức và vô thức, là một cái gì không còn thuộc lãnh vực của ý thức nhưng cũng chưa phải là vô thức. Freud gọi là "tiền vô thức".
Rất nhiều văn nghệ sĩ mà cụ thể là các nhà thơ tiếp nhận một cách hồn nhiên phân tâm học như luồng gió mới như trong lời giới thiệu cuốn sách "Thăm dò tiềm thức" của Carl Gustave Jung, nhà xuất bản Đông Phương đã viết: "Tham vọng của chúng tôi khi dịch những tác phẩm về phân tâm học không phải là muốn độc giả trở thành những nhà bác học về tâm bệnh lý mà chỉ muốn độc giả có một cái nhìn vào chiều sâu của tâm hồn mình, chiêm nghiệm cơ cấu tâm thức, cơ cấu nhân cách của mình và xa hơn nữa dùng phân tâm học như một phương tiện để giải thích văn chương, sự sáng tạo nghệ thuật cũng như những hiện tượng âm thẳm, u uẩn của đời sống nói chung"
Và rõ ràng trong thơ của Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn đã nằm trong tọa độ của phân tâm với ý nghĩa xng đột "âm thẳm, u uẩn". Bùi Giáng đã có những câu rất khó cắt nghĩa và giải thích nếu người nghiên cứu không đặt dưới lăng kính phân tâm học.
Ví dụ như thơ Bùi Giáng:
Một hôm gầu guốc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Bôm ha? đạn hả? bao gồm
Bồm gao gạo đỏ bỏ gồm gạo đen
Về độ quái kiệt, Sơn Núi được xem là một trong ba nhân vật cùng Bùi Giáng và Phạm Công Thiện. Trong "tứ trụ" thơ miền Nam, tôi nghĩ, sẽ không quá chênh lệch khi đặt thi sĩ "cùng chiếu" với Thanh Tâm Tuyển, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên. Những câu thơ kinh khủng như "anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước / miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi / ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người / em chưa đái mà hồn anh đã ướt" có thể tiếp tục còn bàn cãi về tính thơ hay độ nhân từ của thơ từ hôm qua, hôm nay đến hôm sau nhưng tôi chắc nó đã ghim thẳng vào hồn người đọc như một trái phá. Hay Đã gần sáu chục tuổi rồi / Làm thơ trắc nết như hồi hai mươi / Gặp em thuở tóc đang bay / Chòi hoang nằm mộng hai tay tuột quần". Ô la la, chữ với nghĩa! Và thế giới của ông còn khiếp đảm ghi dấu trong nhiều nữa các tác phẩm thi ca, văn xuôi, tùy bút, khẩu ngôn truyền bát… đã và chưa hay không thể công bố. Để hiều được Nguyễn Đức Sơn với cách xử thế "bỏ chốn người lên núi ẩn" gần hết một đời quả là không dễ và không thể hồ đồ. Thách thức các nhà nghiên cứu phân tâm học, logic học và phê bình văn học. Có lẽ cứ để ông bay lượn đau đớn như thế thì dễ chịu hơn. Chuyện của người không phải việc của ta (!?). "Vâng tình tôi thì cũng không nhiều / Coi tất cả chỉ là bọt nước / Vâng tất cả chỉ là bọt nước". Và hoang vu, ta bà, chập chùng bát ngát, cõi mộng hoang sơ. "Tôi chỉ có lửa / Và tịch mịch / Trong người". (thơ Sơn Núi).
Một bài thơ Nguyễn Đức Sơn, bài "Về Đi Thôi".
Về đi thôi kiếm chỗ nằm
Mõ chuông đang nện trăng rằm ngất ngư
Thiền sư ăn thịt thiền sư
Niết Bàn nhiều giống, Chân Như nhiều nòi
Tâm teo tóp, trí cọc còi
Ma đương thuyết pháp quỷ đòi giảng kinh
Kìa em tịnh thủy một bình
Cửa Không ai viếng, cửa mình tôi thăm
Về chủ nghĩa cấu trúc vào miền Nam vẫn từ các học giả, dịch giả quen thuộc như Trần Thái Đình, Nguyễn Văn Trung, Ngô Trọng Lai, Trần Đỗ Dũng… Một số bài viết đã đăng trên các tờ Bách Khoa có thể nhắc như "Đặt lại vấn đề văn minh với Claude Lévi-Strauss" (Nguyễn Văn Trung), "Quan niệm cơ cấu trong các khoa học nhân văn", "Thuyết cơ cấu và phê bình văn học" (Trần Thái Đỉnh). Và sách như "Luận lý và tư tưởng trong huyền thoại" (Một quan niệm văn minh mới theo Claude Le1vi-Strauss. Có thể thấy trong nhiều thơ của Phạm Công Thiện, Nguyên Sa, Tuệ Sĩ dấu vết của ảnh hưởng cấu trúc này. Nói như nhà phê bình Đặng Tiến "Vả chăng Thơ được sử dụng như một phòng thí nghiệm của nhiều khoa học khác: ngôn ngữ học, ký hiệu học, dân tộc học... Thơ là con chuột bạch cho nhiều ngành khoa học nhân văn đương đại" (Vũ trụ thơ)
Dấu vết chiến tranh và chủ nghĩa Max
Từ năm 1954 đến 1975 ở miền Nam có hai thực thể chính trị là Việt Nam Cộng Hòa (1955 - 1975) và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (còn gọi là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam). Do vậy việc tiếp nhận các tư tưởng văn nghệ nước ngoài diễn ra đa dạng và phức tạp. Bên cạnh tinh thần "nhân bản, dân tộc và khai phóng" thì các hoạt động tuyên truyền hoc chủ nghĩa Marx cho chính thể cộng sản ở miền Bắc.
Có thể nói dấu vết chủ nghĩa Marx xen lẫn trong triết thuyết hiện sinh và dấn thân của tuổi trẻ đã làm nên các phong trào phản kháng, xuống đường mà tiêu biểu là Dòng Thơ Đô Thị và Tiếng Hát Những Người Đi Tới. Ở đây, chỉ nghiên cứu trường hợp tiêu biểu là nhà thơ Đông Trình và những tác phẩm thơ ông.
Như đã khai triển ở trên, câu chuyện chiếc chiếu thơ và chỗ ngồi của người làm thơ mà nhà phê bình Hoài Thanh đặt ra lần đầu tiên khi chứng kiến "Có một thời đại trong thi ca" với những đợt sóng triều mạnh mẽ từ văn minh văn hóa Tây phương ập vào làm nứt đổ bức tường thơ cũ nhuốm màu niêm luật "quan trường" che chắn hàng ngàn năm đó nhưng ông vẫn cảnh tỉnh: "Không thể xem phong trào Thơ Mới là chuyện lập dị do một bọn dốt nát bày đặt ra để kiếm chỗ ngồi trong làng thơ…" thì đã có sự thách thức của ông "Tình già" Phan Khôi, người mở đầu Thơ Mới, cũng là bậc thức giả như khẩu đại bác cổ lỗ dũng cảm và dũng khí bắn vào sự thật: "Vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm mảnh đất mới...".
Và đến nhà thơ Đông Trình của dòng thơ tranh đấu đô thị miền Nam chiếc chiếu ấy đã được ông tỏ rõ thái độ như sau:
"Xuất bản thơ? Thú vị vô cùng, nhưng với mục đích nào? Từ lâu nay tại miền Nam, người ta in thơ với nhiều mục đích khác nhau. Để tỏ tình khi vừa yêu một người. Để tuyệt tình khi bị một người phản bội. In thơ để kiếm một chỗ ngồi trên chiếu văn học (dù chiếc chiếu hoa cạp điều ấy đã rách bươm). In thơ để dự giải Tổng thống hay giải Văn bút. In thơ để tạo thành tích văn hóa hầu vận động một chỗ làm tại hậu phương. Và sau cùng có người in thơ không để làm gì hết, tôi gọi là những người in thơ chơi....
Cho nên, tôi in thơ chắc chắn không phải để tự tấn phong mình, vì tôi vốn quan niệm rằng trong ý nghĩa sâu sắc mà người làm văn nghệ có ý thức phải chấp nhận là người làm thơ và người làm ruộng không có gì khác nhau. Trên luống cày đầy bom đạn, đồng bào tôi gieo hạt giống, trên vùng đất văn hóa trổ đầu trái độc, tôi cấy niềm tin" (Bìa bốn thi phẩm "Rừng dậy men mùa - Thi sĩ Đông Trình - Dối Diện xuất bản 1972).
Rất nhiều bài thơ của Đông Trình nổi tiếng thời điểm ấy như "Giọt lệ mừng", "Đêm nghe pháo kích dậy đọc cổ thi"…
Dưới đây là bài "Đường thơm chân đất":
Trời sinh ta có đôi chân cứng
Đất sinh quê đẹp những con đường
Một bước đi một luyến thương
Mỗi đưa tay vẫy một vương vấn lòng ...
(Tháng 4.1973)
Và thi phẩm đầu tay của ông "Rừng dậy men mùa" của ông đã gây một tiếng vang lớn trong phong trào đấu tranh. Ngoài thơ, Đông Trình còn viết tiểu luận thơ. Tập "Giu7a4 vòng tay thân hữu" của ông xuất bản năm 1972 đến nay vẫn còn nhiều giá trị như các bài "Phan Châu Trinh và bài học lịch sử", "Trên quê hương anh hùng và thi sĩ…". Cùng với các nhà thơ khác như Ngô Kha, Trần Quang Long, Hoàng Phủ Ngọc Tường… Đông Trình là một tiếng thơ có dấu ấn riêng biệt thời gian này.
Ở phía khác của cuộc chiến, chà thơ Phạm Lê Phan (Cục tâm lý chiến), là tác giả của nhiều bai thơ được phổ nhạc. Nổi tiếng "Yêu người như thế đó" do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Sau đó ông có trường ca "Chiến ca mùa hè" (1972) do nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành một chùm ca khúc 13 bài.
Lê Minh Ngọc với thi phẩm "Hoa Thề" (In lần thứ nhất, Văn Khoa 1962) có những câu: "Có phải vì cơm áo / Con người muôn thưở mã chia ly / Có phải vì lý tưởng / Mà quê hương tống tiễn chúng ta đi" (Hẹn về phương Bắc). Phạm Duy từng phổ bài thơ "Tâm sự gửi về đâu?".
Và rất nhiều tác giả, tác phẩm khác. Ở đây, trong nghiên cứu cá nhân này tôi muốn đưa ra những tác phẩm còn mờ khuất, các thi sĩ tạo dấu ấn trong thi ca miền Nam một thời nhưng vì nhiều lý do chưa được phác lộ.
PHẦN 3. KẾT LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG TIẾP BIẾN VĂN HÓA
Như vậy, qua những gì tiểu luận thơ này đã viết, rõ ràng không có tiếp biến từ các trào lưu nghệ thuật, văn học, thi ca từ phương Tây sẽ không có "trăm hoa đua nở", các nhóm Sáng tạo… ở miền Nam Việt Nam từ 1955 - 1975. Sự đa dạng giọng thơ. Chất thơ. Đó là sự thật không thể phủ nhận.
Thành tựu của tự do, trước hết là độ mở rộng chiều kích sáng tạo, chiều kích ngôn từ, khai phóng hết cỡ cho người nghệ sĩ. Thế giới sáng tạo của Thơ, nói như Emily Dickinson: "Trên đời tôi không biết có gì quyền uy như ngôn từ. Đôi khi tôi viết ra một từ rồi ngắm nghía cho đến khi nó bắt đầu lung linh tỏa sáng". Tuy nhiên vẫn ảnh hưởng nhiều từ dấu vết các nhà cai trị và cách nhìn nhận về văn hóa, nghệ thuật, thi ca.
Một thời phát triển rực rỡ của văn nghệ miền Nam, với sự độc sáng của thi ca trong ảnh hưởng tiếp biến của văn hóa, văn học Tây phương sẽ tiếp tục khai mở dưới nhiều góc độ, tài năng của người viết.
Mà ngay với tác giả của tham luận này cũng chỉ là bước khởi đầu. Hy vọng sẽ còn nhiều dịp nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn các giá trị giao tầng giữa Việt Nam Miền Nam một giai đoạn cùng thế giới, sự hòa nhịp giữa phương Đông và phương Tây.
Phiên bản dài hơn được tác giả trình bày ở Hội thảo Quốc tế "Literature and Journalism in the Republic of Vietnam" tổ chức tại University of Hamburg - Đức, ngày 11.6.2021.
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-57398533
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét