Thứ Ba, 29 tháng 6, 2021

6930 - Đảm đang tôm rang hành mỡ

Phạm Thị Hoài

Trong vòng ba năm qua, mỗi lần thả hai chữ đảm đang vào ứng dụng dịch thuật của Google tôi đều nhận được một kết quả không thay đổi, theo đó đảm đang trong tiếng Anh là guaranteed. Máy dịch Google mà tôi ngưỡng mộ như một đồng nghiệp lớn, tuyệt đối hào phóng, vô tư, cầu thị và ngày càng giỏi nghề, vẫn bất lực dài trước đảm đang, vẫn tưởng đó là một dạng bảo đảm.

Và như mọi trí tuệ nhân tạo, luôn tính đến mọi phương án, nó hồn nhiên gợi ý rằng có một từ khác gần với đảm đang là dâm đãng mà nó dịch là erotic

Bất lực là phải. Đảm đang là một trong những trường hợp điển hình khi bối cảnh sinh ra một khái niệm không còn hoặc không còn thống trị và khái niệm đó sống tiếp một đời sống xã hội khác. Đảm đang thuộc di sản ngôn ngữ của ông Hồ Chí Minh, cha đẻ của hàng loạt từ ngữ, khái niệm trong kho tàng tiếng Việt, tất cả đều xuất phát từ bối cảnh chính trị ở miền Bắc Việt Nam thời cộng sản và chiến tranh kề vai tri kỷ. Cụ thể, ngày 22-3-1965, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động một phong trào mang tên “Ba đảm nhiệm”, gồm đảm nhiệm sản xuất và công tác, đảm nhiệm gia đình, đảm nhiệm chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhưng Hồ Chủ tịch không ưng đảm nhiệm nên chuyển thành đảm đang và chính thức phát động phong trào “Ba đảm đang” trong “Lời kêu gọi nhân ngày 20-7-1965”. Từ đó và chỉ từ đó, phụ nữ Việt Nam được gắn với đảm đang.

Các nhà nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh” cho rằng đó là sáng tạo ngôn ngữ độc đáo của “Bác”, chỉ thay đổi một chữ mà phản ánh được đúng bản chất, vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong gian khó và tạo nên dấu ấn đặc biệt cho phong trào phụ nữ Việt Nam. Gò ép như thế dĩ nhiên là vô nghĩa, đảm đang chẳng qua là cách phát âm khác của đảm đương, mà cả đảm đương lẫn đảm nhiệm đều không bị một giới tính nào ràng buộc. Nhưng ông Hồ quả nhiên nhạy về âm vần và là một nhà tuyên truyền cự phách: “Phụ nữ Việt Nam trung hậu đảm đang” dễ lan tỏa hơn “Phụ nữ Việt Nam trung hậu đảm đương”, và hơn đứt “Phụ nữ Việt Nam trung hậu đảm nhiệm”. Đồng thời, ông biến động từ đảm đương thành tính từ đảm đang, một pha hãn hữu trong tiếng Việt vốn không có biến cách. Đến đây thì đồng nghiệp Google đáng kính của tôi chịu thua. Làm sao có thể dịch “đường cày đảm đang”? May là “đường đạn đảm đang” không thấy xuất hiện ở thời “vững tay cày, hay tay súng” đó.

Sau một nửa thế kỷ, ba đảm đang rút lại còn một, chỉ còn là gánh vác việc nhà, rồi một lúc nào đó rút hẳn vào bếp. Các trường mở khóa học nấu ăn “Nàng dâu đảm đang”. Các cửa hàng khuyến mại “Ngày thứ Năm đảm đang” hạ giá xoong nồi và máy làm bếp. Thương hiệu Đảm Đang bán muối ớt, muối tôm, bánh tráng. Các ngôi sao đảm đang khoe tài – và quan trọng hơn: khoe đam mê nấu nướng – lăn vào bếp như đặc ân chỉ dành cho phụ nữ. Trẻ nhỏ sớm học bài “Bé đảm đang” phụ bếp, và chị em đảm đang chia sẻ bí quyết tôm rang hành mỡ.

Tôi không can ai nuôi chí đảm đang tôm rang hành mỡ, chỉ xin tiết lộ là trong nhà tôi, ngôi đảm đang số một hiện nay thuộc về chiếc lò hấp nướng đa năng Miele. Nàng là người mẹ, người vợ và nàng dâu lý tưởng. Sau biết bao tìm tòi hăng máu và khổ sở mệt mỏi và miệt mài học hỏi từ mọi diễn đàn nội trợ và YouTube, chưa bao giờ tôi được toại nguyện như thế với món thịt quay giòn bì do nàng Miele đảm đang thao tác, việc của tôi chỉ là vài cái chạm tay vào màn hình. Hôm nay tôi giao cho nàng nhiệm vụ nướng bánh. Bánh mỳ Việt Nam ruột xốp vỏ giòn tan. Nàng OK thật ngoan, lặng lẽ đảm đương, rồi một lúc nào đó khẽ khàng thưa em xong rồi ạ. Với mọi phụ nữ ở Việt Nam, những người muốn thoát khỏi cái “truyền thống đảm đang” – như nêu trên, đó chỉ là một “truyền thống” chưa đầy 56 năm – và cả những người muốn được giầm chân trong đó, rồi công nghệ sẽ đến, từng bước tiến hành công cuộc giải phóng của nó tùy trình độ tiến bộ và phát triển của xã hội. Càng nghèo khó lạc hậu, càng thủ cựu tăm tối, càng cần phụ nữ đảm đang.

8/3/2021

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét