Tác giả Đổng Thành Danh
“Bá quyền Panduranga”[1] là thuật ngữ được Georges Maspero đưa ra trong công trình kinh điển về lịch sử Champa của mình, như là một tên gọi chính thức của một chương sách thể hiện lịch sử của một thời kỳ mà mọi dữ liệu thu được về Champa đều tập trung ở phương Nam, ám chỉ khu vực Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay (Maspero, 1928).
Khái niệm trên của Maspero bắt nguồn từ một giả định, rằng Champa là một thực thể chính trị thống nhất từ Bắc chí Nam, rằng khi mà hầu hết các dữ kiện lịch sử đều tập trung về phương Nam (tức vùng Kauthara và Panduranga) trong thế kỷ thứ 8 và 9. Trung tâm chính trị của vương quốc Champa đã được thay thế bởi các thủ lĩnh phương Nam tựa như là một cuộc dời đô trong những kịch bản quen thuộc được thấy trong lịch sử Trung Hoa hay Đại Việt. Giả định trên được hình thành trên cơ sở ghép nối cơ học hai nguồn tư liệu khác nhau là ghi chép các sử gia Trung Quốc và các bia ký Champa, nhưng trong suốt một thời gian dài, giả định này đã có một chỗ đứng vững chắc trong giới học giả (Vương Khả Lâm, 1936; Coedes, 1944, 2011; Dorohime, 1965; Lương Ninh, 2004, 2006), cho đến khi các nguồn sử liệu khác được bổ sung cung cấp cho chúng ta những cái nhìn mới về Champa.
Trong những thập niên gần đây, các sử gia Champa hiện đại không ngừng đi tìm những luận giải trái ngược với cách nhìn của Maspero, thậm chí phê bình mạnh mẽ luận thuyết về một Champa thống nhất trong cuốn sách nổi tiếng của Maspero. Những nguồn cứ liệu mới, kéo theo đó là những nghiên cứu mới, không ngừng cho thấy Champa là một thực thể có thể chế chính trị năng động, linh hoạt và phức tạp hơn nhiều các hình dung trước đó, rằng Champa là một thực thể chính trị lớn được tập hợp từ nhiều cá thể chính trị độc lập nhỏ hơn hay là một quốc gia liên hiệp được cấu thành từ nhiều tiểu quốc (Po Dharma, 1978, 1987, 2012; Southworth, 2001; Vickery, 2005; Lafont, 2007, 2011; Schweyer, 2010). Như vậy, không hề có một cuộc chuyển dời thủ đô trong thế kỷ 8 – 9, như cách nhìn nhận trước đây của Maspero, các nhà khoa học luận giải sự xuất hiện của các bia ký và di tích Champa dày đặc ở phương Nam, thay thế cho phương Bắc, thời điểm này là một cuộc chuyển dời trung tâm, khi các thực thể chính trị ở phương Nam nổi lên như là một chính thể thống trị và trở thành trung tâm của một vương quốc liên hiệp (Vickery, 2005; Lafont, 2007, 2011; Schweyer, 2009).
Tuy vậy, bản chất thực sự của cái gọi là “Bá quyền Panduranga” nằm ở nội hàm của một sự chuyển dời trung tâm từ phương Bắc về phương Nam và ý nghĩa của điều này đối với toàn bộ lịch sử Champa và khu vực Đông nam Á. Ngay cả khi giả định của Maspero về khái niệm “Bá quyền Panduranga” là sai lầm, ta cũng nên đi tìm ý nghĩa thật sự của những dữ kiện lịch sử làm cội nguồn dẫn đến giả định của Maspero, điều này phần nào giúp chúng ta soi rọi một phần lịch sử Champa trong hơn một thế kỷ đầy biến động ấy. Trong một phê bình nổi tiếng nhất về “Bá quyền Panduranga”, Vickery (2005) xem sự trỗi dậy của Panduranga là sự vươn lên về ưu thế chính trị của các thủ lĩnh phương Nam nhưng không thừa nhận rằng điều này có ý nghĩa với toàn bộ Champa thời bấy giờ, ông lý giải họ (các thủ lĩnh phương Nam) chỉ có tầm ảnh hưởng chính trị trong địa phương của mình và họ chỉ tự xem mình là một phần của Champa. Nhận định trên không giúp chúng ta lý giải tại sao các bia ký và di tích chỉ tập trung ở phương Nam mà không hề có ở phương Bắc trong giai đoạn này? Đó chỉ là trùng hợp hay là một sự thay thế có chủ đích?
Rõ ràng là xoay quanh cái gọi là “Bá quyền Panduranga” cần có nhiều lý giải thấu đáo hơn, đó không chỉ là một nghiên cứu mang tính phê phán những nghiên cứu đi trước, đó còn là việc tìm ra một phác họa cho lịch sử Champa ở phương Nam trong suốt thời kỳ này, cũng như vai trò của nó trong toàn bộ tiến trình của lịch sử Champa. Những nguồn sử liệu mới, những bia ký vừa được phát hiện (như Hòa Lai, Phước Thiện), những dấu tích khảo cổ vừa được khai quật ở Ninh Thuận, Bình Thuận có thể giúp chúng ta lý giải thêm nhiều điều mà chúng ta chưa từng biết đến trong giai đoạn lịch sử ngắn ngủi tại một địa hạt đầy bí ẩn này (Griffiths & Southworth, 2007; 2011). Trong cách tiếp cận đó, quan điểm về “Bá quyền Panduranga” của Maspero, dù phản ánh sai lệch bản chất một vấn đề lịch sử nhưng có ý nghĩa gợi mở quan trọng cho công việc tìm ra vai trò và ý nghĩa của các tiểu quốc phương Nam (Champa) trong thời điểm lịch sử của thế kỷ 8 và 9 ở miền Trung Việt Nam.
Nhìn lại quan điểm của Maspero về “Bá quyền Panduranga”
Để nhìn lại được bối cảnh lịch sử của Champa trong thế kỷ 8 – 9, người ta cần phải lý giải rõ nguồn gốc cũng như các luận điểm cơ bản mà Maspero đưa ra về một “Bá quyền Panduranga”. Luận điểm xuyên suốt của Maspero về Champa là một quốc gia thống nhất, do đó mọi thao tác nghiên cứu lịch sử của ông về quốc gia này là một sự ghép nối mang tính cơ học tất cả các nguồn sử liệu liên quan để tìm ra một lịch sử Champa duy nhất. Trong quan điểm thống soát chung đó, “Bá quyền Panduranga” cũng không hề là một ngoại lệ, thông qua tựa đề và nội dung của toàn bộ chương 4, trong công trình Vương quốc Champa, Maspero đã đồng nhất Panduranga, hay chính là Champa ở phương Nam, với một chính thể mang tên Hoàn Vương. Hoàn Vương là chính thể thay thế cho Lâm Ấp trong sử liệu Trung Hoa, danh xưng này được các sử gia phương Bắc dùng để chỉ một chính thể phương Nam của Trung Hoa từ những năm 757 đến 859 (Maspero, 1928: 95). Yếu tố then chốt trong quan điểm của Maspero, mà ông rút ra từ các nguồn sử liệu Trung Hoa, là Hoàn Vương chính là sự thay thế của Lâm Ấp và sau đó được tiếp nối bởi chính thể Chiêm Thành, do đó có thể đồng nhất hoàn toàn chúng với Champa thống nhất từ Hoành Sơn cho đến biên giới Khmer (Maspero, 1928: 97).
Mở đầu cho giả định như vậy, Maspero cho rằng sau cái chết của Rudravarman II năm 757 (một vị vua ở phương Bắc), Prithivindravaman (người gốc phương Nam) được triều đình chọn làm người kế ngôi, đồng thời chuyển kinh đô về phương Nam thuộc vùng Kauthara và Panduranga, từ đó bắt đầu vương triều thứ 5 trong lịch sử Champa (G. Maspero, 1928: 96-97). Ở một luận điểm khác, Maspero tin chắc rằng, Champa có hai thị tộc “Cau” và “Dừa” tranh giành quyền lực qua nhiều thế kỷ và dòng tộc phương Nam của Prithivindravaman thuộc thị tộc Cau (G. Maspero, 1928: 96). Do đó, ông lập luận rằng hoàn toàn có thể xem các danh xưng của các vị vua trị vì ở phương Nam, mà các bia ký ở đền thờ Po Nagar (Nha Trang) và Phan Rang ghi nhận, là các các vị vua thống trị Hoàn Vương có thủ đô ở Panduranga. Giả định này đi xa hơn, khi Maspero đánh đồng các sự kiện chinh chiến với kẻ thù bên ngoài dưới thời Indravarman hay Harivarman với các cuộc giao tranh với Trung Hoa ở Châu Hoan, Châu Ái (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), điều này hoàn toàn xuất phát từ việc gán ghép các sự kiện trong bia ký Champa ở phương Nam với sử liệu Trung Hoa (Maspero, 1928: 102, 105). Cuối cùng, ông kết thúc triều đại thứ 5 bằng niên đại 859, tức niên đại xuất hiện danh xưng Chiên Thành trong sử liệu Trung Hoa (Maspero, 1928: 95).
Toàn bộ các diễn giải này sau đó bị tranh luận, Paul Pelliot, dù tin Hoàn Vương là Champa, nhưng ông lý giải rằng lãnh thổ Hoàn Vương thuộc Quảng Nam chứ không hề liên quan gì đến các chính thể phương Nam mà Maspero đã gắn ghép, diễn giải về thị tộc “Cau” và “Dừa” cũng bị phản bác bởi Boisselier (dẫn theo Vickery, 2005: 27-28). Vickery trong diễn giải gần đây về lịch sử Champa đưa ra lý luận để tranh biện lại khả năng một chính thể có trung tâm ở phương Nam đủ khả năng tiến hành một cuộc hành quân trên bộ đến tận Châu Hoan, Châu Ái để giao tranh với phương Bắc hoàn toàn là một chính thể khác chứ không hề liên quan đến các thủ lĩnh ở Kauthara và Panduranga (Vickery, 2005: 32). Từ việc tiếp nối các diễn giải của Pelliot và Jean Boisselier, Vickery đồng thời đưa ra quan điểm về việc nên từ bỏ hoàn toàn việc đồng nhất “Bá quyền Panduranga” với Hoàn Vương, cũng như đồng nhất Hoàn Vương với Champa. Các nghiên cứu gần đây của Arlo Griffiths, William Southworth và Anne-Valérie Schweyer, liên quan đến các bia ký Champa ở phương Nam thời điểm này, cũng đồng thời phát triển các luận điểm trên, cho rằng các chính thể ở phương Nam thống trị Kauthara và Panduranga (thế kỷ 8 – 9) lần lượt là các tiểu quốc Guda và Bentuolang (trong các ghi chép hải trình của Trung Hoa) hoàn toàn cách biệt với chính thể Hoàn Vương xa hơn về phía Bắc (Griffiths và Southworth, 2007: 357; Schweyer, 2009: 275).
Cho dù những vấn đề và các quan điểm của Maspero về “Bá quyền Panduranga” đã không còn đứng vững trước các dữ kiện lịch sử và các quan điểm tranh luận hiện có. Tuy nhiên, khi xem xét đến các nguồn gốc của những diễn giải này ta sẽ thấy được nhiều điều phải học từ phương pháp luận sử học của ông, nhất là cách tiếp cận tư liệu, rõ ràng Maspero đã chỉ chứng minh được các sử liệu đáng kể đương thời, các dữ kiện mà ông đưa ra hoàn toàn là các dữ kiện có cơ sở được ghi chép bởi những bia ký trong vùng Nha Trang và Ninh Thuận. Trong thực tế, những dữ kiện, ghi chép ấy là các nguồn sử liệu đáng tin cậy khi chúng ta lý giải về nó trong sự tách biệt, xem xét tham chiếu các thông tin với nhau, trong bối cảnh đa dạng khác nhau hay trong các thời điểm lịch sử khác nhau và nhất là khi chúng ta không mang ảo tưởng về việc có thể đồng nhất chúng với các ghi chép Trung Hoa. Nguồn diễn giải quan trọng đầu tiên của Maspero là các bia ký tháp Po Nagar (Nha Trang) như C38 (A, B, C, D) và C31, tiếp theo là các bia ở Ninh Thuận như C24 (Glai Lamaow), C25 (Yang Tikuk) và cuối cùng bia C14 ở đền thờ Po Nagar thuộc huyện Ninh Phước (Ninh Thuận). Khi có những nguồn tư liệu chính này, Maspero gán ghép với các ghi chép mang tính chính thống của các triều đại Trung Hoa mà chắc chắn chúng ta biết nó chỉ ghi chép về một Hoàn Vương nào đó ở phía Bắc mà không hề liên quan đến vùng đất trung tâm mà chúng ta đang nghiên cứu. Như vậy, góc nhìn liên quan đến tư liệu của Maspero hoàn toàn bị hạn chế, ông chưa hề đối chiếu với các nguồn ghi chép về địa lý và lịch sử Trung Hoa thời ấy ghi nhận về các chính thể khác xa hơn về phương Nam mà không hề là Hoàn Vương. Cũng cần phải nói thêm rằng, bổ sung cho các nguồn ấy là những khám phá hết sức quan trọng từ hai tấm bia, trong thời kỳ này, mới được phát hiện ở Ninh Thuận là Phước Thiện và Hòa Lai.
Bên cạnh góc độ tiếp cận tư liệu, những hạn chế của Maspero bắt nguồn từ phương pháp tiếp cận mang tính đồng nhất về mọi thực thể nghiên cứu, đối với ông chỉ có một Champa duy nhất mà “Bá quyền Panduranga” là một triều đại tiếp nối với các vị vua kế vị nhau theo truyền thống thế tập. Quan điểm mang tính đơn nhất này hạn chế cách nhìn đa dạng trong bối cảnh khu vực, nó không cho phép ông tính đến các khía cạnh về sự đa dạng của chính thể Nam Champa và Bắc Champa, càng không cho ông nhận thức về nguyên nhân thật mà theo đó quyền lực trung tâm được dịch chuyển về phương Nam. Tuy vậy, cho đến những nghiên cứu gần đây nhất dù thừa nhận Champa là một quốc gia liên bang hay liên hiệp tập hợp nhiều tiểu quốc, chúng ta vẫn không làm rõ được mối quan hệ giữa chính thể phương Nam với các tiểu quốc khác trong vương quốc Champa.
Theo quan điểm này, Southworth lý giải sự chuyển dịch quyền lực phương Nam từ các nguyên nhân kinh tế, bắt nguồn từ sự thay đổi của hệ thống giao thương quốc tế, khiến cho các cảng thị ở Kauthara và Panduranga trở nên hưng thịnh (Southworth, 2001: 318). Vickery trong bài viết quan trọng nhìn lại lịch sử Champa, dù phê bình “ảo tưởng” về một Champa đơn nhất (của Maspero), quan điểm của ông vẫn chỉ dừng lại ở giả định rằng dù thừa nhận mình là người cai trị toàn Champa, nhưng các thủ lĩnh phương Nam chưa bao giờ có quyền lực kiểm soát thật sự ở ngoài địa hạt của mình và do đó không hề cai trị toàn thể Champa, điều duy nhất mà ông khẳng định là họ xem lãnh thổ mà mình quản lý là một phần của Champa (Vickery, 2005: 29 – 30).
Cũng chính vì cách tiếp cận mang tính đơn nhất này mà Maspero cũng không thể tính đến sự đa dạng ngay trong chính (các) thực thể phương Nam với sự phân biệt giữa Panduranga với Kauthara. Cho đến những công trình nghiên cứu gần đây cách nhìn này cũng không hề thay đổi cho mấy, Vickery trong nghiên cứu về Champa của mình dù có những phê bình sắc sảo với luận điểm “Bá quyền Panduranga” vẫn chưa làm rõ được các đặc thù mang tính đa dạng trong hai tiểu quốc phương Nam (Vickery, 2005). Trong công trình nổi tiếng về lịch sử Champa, Lafont dù không tán đồng lý thuyết Champa đơn nhất nhưng tin tưởng vào một chính thể phương Nam thống nhất mà trung tâm ở Virapura (Ninh Thuận) (Lafont, 2011: 145). Các tiếp cận mới hơn của Griffiths và Southworth và Schweyer gần như phân biệt rạch ròi được sự khác biệt của Panduranga và Kauthara nhưng vẫn chưa lý giải sự đa đạng ấy một cách tường tận (Griffiths và Southworth, 2007, 2011; Schweyer, 2009).
Tóm lại, Maspero không chỉ bị hạn chế bởi các nguồn tư liệu mà còn chính từ phương pháp mà ông dùng làm nền tảng tiếp cận các vấn đề lịch sử. Tuy vậy, những hạn chế của Maspero vẫn là những hạn chế mang tính thời đại, xuất phát từ những nguồn dữ liệu khiêm tốn và tản mạn đương thời. Khi từ bỏ luận điểm về “Bá quyền Panduranga” chúng ta vẫn nên xem xét các khía cạnh học thuật mà từ đó diễn ngôn ấy được ra đời, những bài học về phương pháp luận sử học, để diễn giải một cách toàn diện và thấu đáo hơn về lịch sử Champa trong giai đoạn này.
2. Sự trỗi dậy của quyền lực phương Nam (thời kỳ Satyavarman)
Thời “Bá quyền Panduranga” được Maspero mở đầu bằng một vị vua có tên là Prithivindravarman (Maspero, 1928: 96-97), tên gọi này được Maspero dẫn lại từ bia ký Glai Lamaow (C.24) có nội dung ca ngợi vua Prithivindravarman do vua Indravaman để lại ở vùng Ninh Thuận, trong đó có ghi móc thời điểm năm 723 Saka tức năm 801 Công nguyên (Finot, 1915: 8; Majumdar, 1927: 51-56). Theo Maspero, Prithivindravarman, một người xuất thân từ dòng dõi các tiểu vương ở Panduranga, được chọn kế vị sau khi Rudravarman II mất vào năm 757 và từ đó mở đầu cho vương triều Panduranga (thứ 5) ở phương Nam (Maspero, 1928: 108). Phản bác lại điều này, Vickery cho rằng người ta không tìm thấy bất kỳ tên vị vua nào là Rudravarman tại Mỹ Sơn vào thời điểm đó, cũng như niên đại về việc Rudravaman này chết vào năm 757 chỉ là phỏng đoán từ việc các ghi chép của Trung Hoa bắt đầu thay tên Lâm Ấp bằng Hoàn Vương vào cùng niên đại này (Vickery, 2005: 30). Cũng trong phần viết về Prithivindravarman, Maspero liên tục cắt dán các chi tiết liên quan đến tiểu sử của Rudravarman từ một bia ký khác ở Đồng Dương (C66), như vậy rất có thể danh xưng Rudravarman mà Maspero nêu lên ở trên là bắt nguồn từ một phả hệ ở Đồng Dương? Finot đã nêu ra nghi vấn sự nhầm lẫn về danh xưng các vị vua trong bia ký Đồng Dương với các thủ lĩnh phương Nam, Vickery sau đó bổ sung và đưa ra lý giải hết sức thấu đáo về sự nhầm lẫn này (Vickery, 2005: 30-31). Vấn đề này rõ ràng chỉ ra sự lẫn lộn trong việc sử dụng tư liệu từ tư duy xem Champa là một thể đơn nhất, trong khi thực tế rằng Prithivindravarman ở một văn bia tại Ninh Thuận không hề có liên quan gì đến văn bia ở Đồng Dương có niên đại muộn hơn rất nhiều.
Trong công trình gần đây nhất mang tính tổng quan về lịch sử Champa, Pièrre-Bernard Lafont, một học giả rõ ràng không đồng ý với quan điểm về một Champa thống nhất, vẫn ủng hộ giả định rằng Prithivindravarman (gốc phương Nam) được Hội đồng Hoàng gia lựa chọn để thay thế Rudravarman II (Lafont, 2011: 144). Nếu như Maspero đề cập đến xuất thân của Prithivindravarman là ở Panduranga thì Lafont cho rằng Prithivindravarman xuất thân ở Kauthara, vì nơi này tập trung hầu hết các văn bia thuộc triều đại của ông. Mặt khác, Lafont cũng cho rằng Virapura (tên gọi xuất hiện trong bia ký Glai Lamaow) là kinh đô của Prithivinvarman và những người kế vị ông (Lafont, 2011: 145). Cũng như Maspero, giả định về một kinh đô Virapura của Lafont bắt nguồn từ các ghi chép trong bia ký Glai Lamaow (C24), nhưng thay vì chỉ xem Virapura như là một đô thành dưới thời Indravarman (chủ nhân trực tiếp của tấm bia), như Maspero, Lafont đẩy xa hơn vấn đề với suy luận đây cũng là kinh đô của Prithivindravarman và cả vương triều của ông. Điều chúng ta biết bây giờ là giả thuyết mà Lafont đưa ra là hết sức mong manh vì hai lẽ: kinh đô của Indravarman chưa chắc đã là kinh dô của Prithivindravarman, dù Indrvarman tự xưng là hậu duệ của Prithivinvarman; tiếp theo việc xác định vị trí thật sự của Virapura vẫn chưa có gì là rõ ràng?
Toàn bộ những chi tiết liên quan đến Prithivindravarman mà Maspero và sau đó là Lafont đưa ra hoàn toàn dựa vào các ghi chép duy nhất trong văn bia Glai Lamaow (C24). Cũng thông qua bia ký này, người ta biết rằng Prithivindravarman là chú của Indravarman (người dựng nên tấm bia Glai Lamaow) từ một chi tiết ghi nhận là có một Satyavarman nào đó là “con trai của em gái/fils de la soeur” Prithivindravarman, tức là cháu của Prithivindravarman, mà Satyavarman lại được ghi nhận (cũng trong bia C24) là anh của Indravarman, chi tiết này như vậy gián tiếp cho thấy Prithivindravarman cũng là chú Indravarman (Masprero, 1928: 97, 100; Schweyer, 2009: 18). Điều này cho thấy một bản phả hệ hoàng tộc mang tính mẫu hệ điển hình ở phương Nam, mà sự thừa kế vương vị được xác định bằng dòng nữ, cũng như vai vế gần gũi giữa Prithivindravarman và Indravarman dường như cho thấy Prithivindravarman là một vị vua lịch sử. Nhưng liệu những ghi chép này có thể giúp chúng ta đưa ra các nhận định rằng: Prithivindravarman là người mở đầu quyền lực phương Nam? Hay là người có gốc Kauthara, đóng đô ở Viraprura? Cũng là người “cai trị toàn bộ đất đai Champa” như bia C24 ca ngợi? Đó là những nhận định quá vội vàng với những dữ liệu sử học hiện có, chúng ta chưa có bằng chứng nào có đủ giá trị xác nhận cụ thể làm căn cứ chắc chắn cho các ghi chép trong bia ký Glai Lamaow của Indravarman, đó chỉ là các ghi chép duy nhất, muộn hơn và mang tính hồi tưởng của hậu duệ (tức vua Indrvarman), do đó chưa thể cho chúng ta có một cái nhìn thấu đáo về vai trò của Prithivindravarman trong lịch sử.
Ngược lại, có một điều dường như chắc chắn hơn đó là lai lịch của vua Satyavaman và vai trò của ông trong sự trổi dậy của quyền lực phương Nam vào thời điểm ấy. Bia ký C24, mà chúng ta đã nói đến ở trên, ghi nhận Satyavarman là người kế vị và là cháu trai của Prithivindravarman, các ghi chép đó cũng cho thấy triều đại của ông là một triều đại ngắn ngủi, dù huy hoàng, được tiếp nối bởi người em út là Indravarman (Finot, 1915: 8; Majumdar, 1927: 51-56). Danh xưng của vua Satyavarman được ghi nhận trong các bản khắc khác ở Nha Trang mang ký hiệu C.38 (Finot, 1915: 7-8; Majumdar, 1927: 41-44; Schweyer, 2005: 110-115) và hai tấm bia mới phát hiện ở Ninh Thuận là Phước Thiện và Hòa Lai (Griffiths và Southworth, 2007; 2011). Vị trí phân bố và khoảng thời gian xuất hiện gần như tương đồng của bốn bia ký này cho phép chúng ta xác định chúng cùng nhắc đến một Satyavarman, việc nghiên cứu, đối chiếu, so sánh nội dung, phong cách của các bia ký này cho phép chúng ta có một cái nhìn cụ thể về vua Satyavarman trong sự trỗi dậy của quyền lực phương Nam.
Mặt A của bia C.38, tại tháp Bà Po Nagar (Nha Trang), là bản tường thuật chi tiết và lâu đời về Satyavaman. Tấm bia ghi nhận rằng, vào năm 696 Saka/774 CN (Công nguyên), vua Satyavarman đã tiêu diệt một đội quân xâm lược từ bên ngoài đến tàn phá và cướp bóc tài sản của ngôi đền thờ thần Sambhu ở Kauthara, do một vị vua tên là Vicitrasagara dựng nên, đồng thời sau đó nhà vua đã cho khôi phục lại đền thờ này vào năm 706 Saka/784 CN (Majumdar, 1927: 43-44; Schweyer, 2005: 110-111). Những ghi chép này cho thấy Satyavarman đã có một cơ sở quyền lực quan trọng trong vùng vào thời điểm đó để rồi đánh bại quân xâm lược và đồng thời kiến lập việc thờ tự tại tháp Bà Po Nagar (Nha Trang), tất nhiên dựa trên một cơ sở thờ tự trước đó, ở vùng Kauthara. Những nội dung tiếp theo của văn bia này, ở mặt B, cũng xác nhận việc thiết lập một linga mang tên Satyamukhalinga, cũng tại ngôi đền Po Nagar mà, chắc hẳn cùng thuộc thời điểm ghi ở mặt A vì đều được dựng lên trên cơ sở tôn giáo của vị vua tên là Vicitrasagara (Schweyer, 2005: 112-113). Nhưng mặt B này được dựng bởi một hậu duệ khác của Satyavarman là Vikrantavarman và cái tên Satyamukhalinga cũng chỉ được truy tặng sau này, dưới thời Vikrantavarman (Griffiths, Southworth, 2007: 358).
Tấm bia Phước Thiện vừa mới được công bố cung cấp một cái nhìn khác về vai trò tôn giáo của Satyavarman bên ngoài lãnh thổ Kauthara, tấm bia xác nhận việc dựng một Mukhalinga ở Kauthara mà những mô tả là đồng nhất với tấm Linga được dựng ở đền thờ Po Nagar (đã đề cập ở trên). Đồng thời tấm bia tập trung vào việc Satyavarman đã kiến lập việc thờ tự một vị thần có tên là Sri Satyadesvaranatha (hóa thân của Shiva) vào năm 705 Saka/783 CN. Một vấn đề được cả Griffiths và Schweyer đặt ra là tại sao một tấm bia đề cập đến một sự kiện có niên đại sớm hơn (năm 705 Saka/783 CN) lại cùng đề cập đến một sự kiện có niên đại muộn hơn (năm 706 Saka/784 CN) ở một tấm bia khác (mặt A của bia C38)? Điều này được giải thích là tấm bia Phước Thiện hoàn thành sau việc khôi phục cơ sở thờ tự ở Kauthara (năm 706 Saka/784 CN), nhưng lại đồng thời ghi lại một sự kiện diễn ra trước đó một năm ở vùng Panduranga là việc thiết lập thờ tự Satyadesvaranatha (705 Saka/783 CN) (Griffiths và Southworth, 2007: 356; Schweyer, 2009: 20-21). Tuy vậy, mấu chốt của vấn đề không nằm ở nghi vấn này, dù mặt A của tấm bia C38 được viết trước hay tấm bia Phước Thiện viết sau, thậm chí khi cả hai cùng viết trong một thời điểm nó không làm thay đổi bản chất của vấn đề là cả hai bản khắc đều ghi chép các sự kiện, dù ở hai lãnh thổ khác nhau (Kauthara và Panduranga), nhưng không chênh lệch nhau về thời điểm cho lắm. Rất có thể, việc kiến lập hai cơ sở thờ tự (Sri Satyadesvaranatha ở Panduranga và Satyamukhalinga tại Kauthara) là gần như diễn ra cùng lúc, thứ tự trước sau của hai sự kiện (chỉ chênh lệch một năm) không phản ánh sự quan trọng của nền tảng tôn giáo nào hay của địa phương nào hơn trong thời kỳ Satyavarman?
Tuy vậy, một điều chắc chắn mà ta có thể đưa ra từ ghi chép của hai bản khắc trên là dường như Satyavarman, có tầm ảnh hưởng đối với cả Kauthara và một phần Panduranga (thuộc phía Bắc tỉnh Ninh Thuận hiện nay) trong thời điểm này. Dù vậy, việc xác định đích xác vị trí trung tâm quyền của Satyavarman ở nơi nào trong hai tiểu quốc Panduranga và Kauthara vẫn còn bỏ ngỏ? Maspero và cả Lafont, không nghi ngờ gì nửa. Định vị trung tâm quyền lực của Satyavarman là Panduranga theo những cứ liệu đã cũ (Maspero, 1928: 100;Lafont, 2011: 145). Với việc nghiên cứu nội dung của bia ký Phước Thiện, Griffiths và Southworth cho rằng vua Satyavarman khởi dựng đế nghiệp của mình từ Kauthara và sau đó lan toàn ảnh hưởng đến vùng Panduranga (Griffiths và Southworth, 2007: 356-358). Ngược lại, Schweyer, từ một gợi ý của Pelliot, bảo vệ quan điểm rằng từ Panduranga, Satyavarman đã sát nhập Kauthara và làm vua của cả hai vùng (Schweyer, 2009: 20). Bản thân tôi cảm thấy dè dặt trong việc có thể xác định một cách đích xác trung tâm mà từ đó khởi phát quyền lực của Satyavarman?
Tấm bia Hòa Lai là bản khắc mới nhất được phát hiện và nghiên cứu với nội dung có nhiều chi tiết mới liên quan đến Satyavarman. Phần mở đầu bản khắc này đề cập đến việc Satyavarman xác lập việc thờ tự một hóa thân của thần Shiva là Adidevesvara vào năm 700 Saka/778 CN (Griffiths, Southworth, 2011: 282-283). Những nội dung của tấm bia này làm thay đổi hoàn toàn nhận định trước đây, của Griffiths và Southworth về trung tâm quyền lực ban đầu của Satyavarman, theo hai ông vị trí trung tâm này phải được tái định vị ở trong vùng Panduranga, chứ không phải Kauthara như các ông đã nêu ra trước đó (Griffiths và Southworth, 2011: 290). Chi tiết trên cho ta thấy Satyavarman đã kiến lập một nền tảng tôn giáo, ở vùng Panduranga, sớm hơn cả hai nền tảng tôn giáo được ghi trong bia C38 (A, B) và Phước Thiện. Nhưng có một dữ kiện khác, từ nội dung tấm bia Hòa Lai, mà Griffiths và Southworth chưa xem xét cụ thể, đó là một nền tảng tôn giáo khác, có thể lâu đời hơn, được nhắc đến trước đó là việc tôn vinh một hóa thân khác của thần Shiva dưới tên gọi Vrddresvara (mà trước đó bia Phước Thiện cũng xác nhận). Vị thần được giành phần trang trọng ở đầu tấm bia, ngợi ca là Đấng bảo hộ của lãnh thổ Panduranga và của chính vương triều vua Satyavarman (Griffiths, – Southworth, 2011: 282). Chi tiết, đắt giá này, cho thấy những nền tảng tôn giáo quan trọng ban đầu của Satyavarman ở của vùng Panduranga, trong khi một nền tảng khác ở Kauthara chỉ được thừa hưởng sau này, từ một nền tảng tôn giáo của vị vua khác trước đó là Vitrasagara (xem bia C38.A). Điều này xem ra nghiên về chiều hướng cho thấy Panduranga là nơi khởi nguồn ban đầu của Satyavarman từ đó ông mới lan tỏa ảnh hưởng của mình đến khu vực Kauthara và trở thành vua của cả hai tiểu quốc này.
Tất cả các ghi chép trên, dù là ghi chép từ thời Satyavarman hay chỉ do hậu duệ ông ghi nhận lại, với những niên đại xác định cụ thể phản ánh giá trị lịch sử của nó, đều cho thấy Satyavarman là người mở đầu cho sự nổi lên về quyền lực của các thủ lĩnh phương Nam, từ đây các tiểu quốc Kauthara và Panduranga sẽ giữ vai trò “Bá quyền” trong khu vực. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng, ta chỉ xem đây là giai đoạn khởi đầu, đặt nền móng cho thời kỳ vươn lên này, như Griffiths và Southworth lưu ý, trong hầu hết các bia ký về Satyavarman, không trực tiếp đề cập đến Champa, ông cũng không tự xưng là Raja và, dù giữ vai trò tự chủ vẫn phụ thuộc một quyền lực khác có chủ quyền trong vùng có thể là Hoàn Vương (Griffiths và Southworth, 2007: 292-293).
(còn tiếp)
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2020/12/26/ba-quyen-panduranga-va-boi-canh-mien-nam-champa-the-ky-8-9/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét