Viet-studies - Nguyễn Quang Dy
Phần 3: Triển vọng kinh tế ngầm ở Việt Nam
Đối với nhiều nước, kinh tế ngầm là một thực tế ngày càng quan trọng và đáng quan tâm, nhưng cũng nan giải. Việt Nam quan tâm đến kinh tế ngầm là đúng, nhưng nên thận trọng vì đó là một lĩnh vực tù mù, khó thống kê và quản trị. Chính phủ cần thận trọng giao cho các cơ quan nghiên cứu theo dõi một cách nghiêm túc và tham khảo ý kiến các chuyên gia trong nước và ngoài nước trước khi quyết định. Trong bối cảnh kinh tế đang gặp khó khăn vì đại dịch Covid-19, kinh tế ngầm tuy có vai trò quan trọng hơn, nhưng cũng dễ bị tổn thương hơn.
Các chuyên gia nói gì
Kinh tế ngầm tại Việt Nam rất tiềm tàng nhưng lâu nay không được chú ý đúng mức và thừa nhận, nên ít được nhắc tới (cho đến gần đây). Số liệu về quy mô kinh tế ngầm dó đó cũng rất khác nhau. Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, kinh tế ngầm trên thế giới chiếm khoảng 16-25% GDP. Tuy chủ trương thống kê khu vực kinh tế ngầm tại Việt Nam là cần thiết, nhưng bà Chi Lan cho là rất khó. Theo bà, “Lúc này, cách tích cực nhất là Việt Nam hãy kiểm soát tốt hệ thống kinh tế chính thức mà cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước”.
Theo bà Chi Lan, nắm chắc được các doanh nghiệp nhà nước sẽ tăng được hiệu quả kinh tế lên rất nhiều, chứ không phải lôi khu vực kinh tế ngầm vào là có thể thay đổi được bộ mặt kinh tế. Nếu thống kê kinh tế ngầm để tính thêm vào GDP, khiến mẫu số trong cách tính nợ công/GDP tăng, làm tử số (nợ công) mở rộng thêm, có thể tác động ngược lại đến nền kinh tế. Đây chính là “hệ quả không định trước” mà nhiều chuyên gia kinh tế cảnh báo.
Theo tiến sỹ Nguyễn Đức Thành (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách), đề án thống kê kinh tế ngầm có thể giúp Chính phủ có quyền tăng nợ công vì nợ công được Quốc hội đưa ra dựa trên GDP. Vì vậy nếu mẫu số to lên, tử số cũng được nhích lên theo. Bên cạnh đó, việc tăng GDP do được cộng thêm khu vực kinh tế ngầm vào có thể làm thay đổi một loạt chỉ tiêu vĩ mô như tăng thuế, tăng thu, tăng nợ của cả nền kinh tế nói chung, trong khi khó lòng thu được gì từ khu vực kinh tế ngầm (dù có thống kê và tính toán được chăng nữa). Trong khi nền kinh tế “thực” (chính thức) phải gánh thêm nhiều tác động hơn, thì kinh tế “ngầm” dường như không có gì thay đổi, dù cho người ta có thể “lôi được nó ra ánh sáng”.
Bà Chi Lan cho rằng một trong những thành quả đáng kể của đổi mới (vòng một) là hàng triệu doanh nghiệp chính thức và phi chính thức đã ra đời, nhất là từ khi có Luật Doanh nghiệp, làm thay đổi cơ bản môi trường kinh doanh và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, mà trước đây chủ yếu là hoạt động “chợ đen” (không có giấy phép). Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam phải có một triệu doanh nghiệp chính thức, mặc nhiên hiểu ngầm là phải đưa hàng vạn doanh nghiệp phi chính thức (như hộ kinh doanh gia đình) trở thành doanh nghiệp chính thức bằng đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp và có đóng thuế.
Theo các tài liệu của World Bank, IFC, WEF, khu vực kinh tế phi chính thức (informal sector) tại Việt Nam đã ra đời một cách tự nhiên theo quy luật cung cầu, thường xuất hiện trước khi có cộng đồng doanh nghiệp, nên trở thành “lực lượng dự bị” cho doanh nghiệp chính thức. Trong một môi trường kinh doanh tốt, khi nào thành phần kinh tế phi chính thức phát triển tới một mức độ nhất định thì họ sẽ trở thành doanh nghiệp chính thức. Theo bà Chi Lan, ở đâu có môi trường kinh doanh tốt thì ở đó có sự chuyển dịch cao hơn từ kinh doanh phi chính thức thành chính thức, có lợi cho cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế. Cải thiện môi trường kinh doanh và chuyển đổi cơ cấu doanh nghiệp luôn là mục tiêu của các quốc gia.
Theo bà Chi Lan, mảng kinh tế ngầm đáng lo ngại là các nhóm “xã hội đen” (hay “mafia”), gồm nhiều thành phần kinh tế đa dạng như nhà nước, tư nhân, FDI và những nhân vật bí ẩn (các “ông trùm” chuyên chạy dự án như “Vũ Nhôm” và “Út Trọc”). Các nhóm lợi ích này có thể hoạt động chính thức dưới một vỏ bọc kín đáo để che đậy bản chất mafia, nhằm lách luật, lũng đoạn chính sách, qui hoạch phát triển, phân bổ nguồn lực và dòng vốn. Các nhóm lợi ích thân hữu (hay “tư bản đỏ”) thường có hệ thống bảo kê rất mạnh và nắm trong tay nhiều đặc quyền để có thể thao túng chính quyền và chính sách. Đó là các băng nhóm xã hội đen trong thế giới ngầm có hại cho đất nước và cộng đồng doanh nghiệp, cần phải lên án và vô hiệu hóa. Các vụ trọng án như “Vũ Nhôm” (ngành công an), “Út Trọc (của quân đội), Nguyễn Thanh Hóa và Phan Văn Vĩnh (tướng công an bảo kê đường dây đánh bạc online) là một minh chứng.
Chuyên gia kinh tế Bùi Trinh cho biết rằng cơ quan thống kê của Úc đã đo lường khu vực kinh tế ngầm và điều chỉnh GDP tăng được 3% (năm 2012). Có nguồn tin đã ước tính nền kinh tế chưa được quan sát của Việt Nam chiếm 20-30% GDP, nhưng theo ông Bùi Trinh điều đó không dựa trên căn cứ chắc chắn. Việt Nam không coi các hoạt động phi pháp (như ma túy, mại dâm, cờ bạc) thuộc phạm trù sản xuất (mặc dù Liên Hợp Quốc quy định những hoạt động đó thuộc phạm trù sản xuất). Nếu quy mô GDP tăng lên thì bội chi, nợ công so với GDP sẽ giảm đi, có thể đạt được cái gì đó về mặt thành tích nhưng sẽ che mờ đi sự thật vì những khoản tính thêm vào GDP là những khoản không thu được thuế vào thu ngân sách.
Ông Bùi Trinh còn cho rằng muốn thống kê kinh tế ngầm, trước hết chính phủ phải công nhận các khu vực kinh tế chưa quan sát được, gồm cả các hoạt động phi pháp (như ma túy, mại dâm, cờ bạc), từ đó cơ quan thống kê mới có cơ sở để tính toán vào quy mô nền kinh tế. Thứ hai, cần phải tính GDP từ phía cầu (chứ không chỉ dựa vào phía cung). Thứ ba, sở dĩ kinh tế ngầm vẫn sống được là do tham nhũng. Vì vậy, cần thay đổi phương pháp thống kê để ngăn chặn tham nhũng và bảo kê của “một bộ phận không nhỏ” trong đội ngũ cán bộ công chức. (“Mổ xẻ kinh tế ngầm Việt Nam”, Bùi Trinh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 22/1/2018).
Hoạt động kinh tế ngầm lớn nhất là tại khu vực doanh nghiệp, vì doanh nghiệp nào cũng có hai sổ kế toán, một để hạch toán nội bộ và một để tính thuế, và doanh thu trong hai quyển sổ đó chênh nhau rất nhiều. Theo ông Bùi Trinh, thống kê thêm khu vực kinh tế ngầm vào quy mô của nền kinh tế chỉ mang tính chất thành tích ảo, và phản ánh kỳ vọng tăng trần nợ công của Chính phủ. Điều đó sẽ tác động mạnh tới nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô bởi vì nợ công của Việt Nam hiện rất lớn, nếu tiếp tục tăng nợ công sẽ gây thêm áp lực lên nền kinh tế. Dù có thống kê được khu vực kinh tế ngầm thì cũng rất khó để quản lý và thu thuế.
Theo số liệu thống kê (từ 2005 đến 2019), kinh tế cá thể (không chính thức) có tỷ trọng lớn, chiếm khoảng 30% GDP (khá ổn định). Kinh tế tư nhân (các doanh nghiệp Việt Nam) chiếm khoảng 10% GDP (không tăng). Trong khi đó, kinh tế nhà nước giảm từ 38% GDP (2005) xuống 27,1% GDP (2019), nhưng chi ngân sách thường xuyên tăng từ 5,7% (2005) lên 10,1% (2019). Theo ông Bùi Trinh (CafeF, 21/8/2020), trong bối cảnh đại dịch Covid-19, cần nhìn nhận kinh tế ngầm có vai trò quan trọng hơn nhưng dễ bị tổn thương.
Khu hợp tác kinh tế qua biên giới
Khi Chủ tịch Tập Cận Bình đến thăm Việt Nam (11/2017), hai nước đã ký Bản ghi nhớ về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận khung về xây dựng các “khu hợp tác kinh tế qua biên giới”. Tuy đây là việc nâng cấp các “khu kinh tế cửa khẩu”, nhưng là một kế hoạch tổng thể chứ không chỉ là ý tưởng của từng địa phương. Về đối ngoại, “ngoại giao láng giềng” được xếp ở vị trí thứ hai, chỉ sau “quan hệ với các nước lớn”. Theo kế hoạch, có bốn khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt-Trung, nhưng hai bên vẫn chưa thống nhất được cách quản lý mô hình “hai nước một khu”, liệu sẽ áp dụng luật Việt Nam hay luật Trung Quốc?.
Theo chuyên gia thống kê Liên Hợp Quốc Vũ Quang Việt, mô hình “hai nước một khu” chính là mô hình nhằm biến một phần đất Việt Nam dọc biên giới theo chính sách “Một vành đai Một con đường” để từng bước trở thành đất Trung Quốc. Nói cách khác, Việt Nam “tự nguyện” nộp đất của mình vào mô hình “hai nước một khu” để Trung Quốc “cùng phối hợp quản lý và khai thác”. Thỏa thuận Thành Đô (9/1990) là một thảm họa đối với Việt Nam, nhưng là một thành công đối với Trung Quốc, nên chắc chắn họ không dừng lại. Liệu sáng kiến “hai nước một khu” có phải là một kiểu “Thành Đô 2.0” như nhiều người vẫn lo ngại?
Nếu trên Biển Đông họ đã và đang triển khai chiến lược “cờ vây” bằng cách “thay đổi thực địa” để biến việc lấn chiếm và quân sự hóa thành “chuyện đã rồi” (fait accompli) thì trên đất liền chắc họ cũng sẽ làm tương tự. Thuyết “biên giới mềm” của Trung Quốc đang được cụ thể hóa bằng sáng kiến “hai nước một khu”, để từng bước biến nó thành khu vực không biên giới “trên thực tế” (de facto), như chuyện con trăn nuốt dần con thỏ. Nếu “Một vành đai Một con đường” là kế hoach tổng thể (master plan) thì “hai nước một khu” là sáng kiến cụ thể để triển khai (execution project) trong kế sách “tằm ăn dâu” (hay “cắt lát salami”).
Gần đây, hai nước còn định triển khai hệ thống “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu”, dự kiến đưa vào hoạt động từ tháng 5/2018 như một bước để hiện thực hóa chủ trương đó. Hệ thống này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người Trung Quốc vào Việt Nam hơn là người Việt Nam vào Trung Quốc. Theo các nguồn tin, Phủ Lý (Hà Nam) cách đây nhiều năm chỉ có vài chục người Trung Quốc đi du lịch rồi ở lại, nhưng bây giờ có hàng nghìn người đến làm ăn trong một thành phố nhỏ có hơn 100,000 dân. Đó là một tỷ lệ quá cao, đặt ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ. Không phải chỉ có Phủ Lý mà còn nhiều nơi khác (như Đà Nẵng và Nha Trrang). Không chỉ có kinh tế ngầm, mà còn một thế giới ngầm khó kiểm soát.
Điều chuyên gia Vũ Quang Việt lo ngại cũng là điều dư luận chung quan tâm. Để báo động và ngăn chặn nguy cơ mất dần chủ quyền quốc gia, cần có tiếng nói mạnh hơn. Theo các chuyên gia, nguy cơ không chỉ vì chủ trương “hai nước một khu” hợp tác kinh tế qua biên giới, mà còn do Trung Quốc tham vọng kiểm soát Biển Đông như cái ao của họ. Trung Quốc muốn áp đặt “đường lưỡi bò” (hay “Tứ Sa”) để ngăn chặn Việt Nam thăm dò và khai thác dầu khí cũng như đánh cá tại vùng đặc quyền kinh tế của mình. Trung Quốc dọa Việt Nam, buộc hãng Repsol (Tây Ban Nha) và PetroVietnam phải bỏ dự án “Cá Kiếm Nâu” (Brown Gradius) lô 136-03 (7/2017) và dự án “Cá Rồng Đỏ” (Red Emperor) lô 07-03 (3/2018).
Trong khi đó, PetroVietnam lâm vào khủng hoảng vì gần như toàn bộ dàn lãnh đạo của PVN đã bị bắt và truy tố trong chiến dịch chống tham nhũng. Tuy tham nhũng là quốc nạn mà tất cả các tập đoàn kinh tế nhà nước (SOE) đều mắc phải, nhưng PVN có vai trò quan trọng hàng đầu để đảm bảo an ninh năng lượng và chủ quyền quốc gia. Đúng lúc Việt Nam cần tăng cường khai thác dầu khí để bổ xung cho ngân sách đang bị thâm hụt thì hoạt động dầu khí gần như tê liệt vì chống tham nhũng quyết liệt, tái cơ cấu bộ Công an, và sức ép ngày càng tăng của Trung Quốc đối với dầu khí và chủ quyền, như một cuộc “khủng hoảng kép”.
Khi dàn lãnh đạo PVN bị bắt gần hết, thì các đối tác lớn về dầu khí như Repsol (Tây Ban Nha), Exxonmobil (Mỹ), và OVL (Ấn Độ) chắc cũng hoang mang chững lại. Vào cuối năm 2017, đại diện Exxonmobil đã tuyên bố hoãn triển khai dự án “Cá Voi Xanh” đến 2019. Nhưng đến nay dự án này vẫn chưa triển khai, với tin đồn Exxonmobil có thể bỏ cuộc. Đó là nghịch lý chống tham nhũng cũng như cái giá phải trả về lợi ích quốc gia và chủ quyền tại Biển Đông, trong khi chỉ có Trung Quốc là “ngư ông đắc lợi”. Kết quả là Trung Quốc đang kiểm soát Biển Đông như cái ao của họ, và gây sức ép để buộc ta phải “cùng khai thác dầu khí”.
Kinh tế ngầm và xã hội đen
Trong khi đó, quan tâm hàng đầu của dư luận hiện nay là thực trạng xã hội đen trong nền kinh tế. Phát biểu tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (5/1/2018) Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị Mặt trận góp phần loại bỏ băng nhóm xã hội đen trong nền kinh tế, đe đọa cuộc sống của người dân và doanh nghiệp. Nhiều lãnh đạo khác cũng đề cập đến thực trạng các băng nhóm xã hội đen (hay đỏ) đã chuyển hướng sang lấn chiếm đất công, như “Vũ Nhôm” đã từng lũng đoạn thị trường nhà đất Đà Nẵng kiểu mafia.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do hệ thống quyền lực không được kiểm soát. Hệ thống công quyền thay vì phục vụ lợi ích chung của quốc gia và quốc dân, nay đang bị thao túng để phục vụ lợi ích riêng của một số nhóm lợi ích thân hữu. Theo giáo sư Alexander Vuving, sự câu kết giữa các doanh nghiệp thân hữu và các thế lực chính trị trong hệ thống chính quyền là mắt xích hình thành các nhóm lợi ích để cùng trục lợi: “Tình hình chung ở Việt Nam là ông đại gia nào cũng có ô dù, không có ô dù thì không thể nào sống được. Còn nếu trở thành đại gia rồi mà không có ô dù thì ô dù sẽ chạy đến xin làm ô dù cho ông ta.”
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cũng có những nhận xét tương tự về thực trạng xã hội đen trong hệ thống lợi ích nhóm hiện nay: “Tôi nghĩ rằng tình hình các nhóm lợi ích là vấn đề thời sự rất gay gắt hiện nay. Các lợi ích nhóm đó không phải chỉ có ở đầu tư hay đất đai, mà bây giờ có thể xuất hiện kể cả trong việc ảnh hưởng đến những chính sách được quyết định ở các cấp cao nhất. Nếu muốn loại bỏ các hoạt động của xã hội đen trong nền kinh tế thì trước hết Chính phủ phải công khai minh bạch, cung cấp thông tin cho người dân về các dự án, chính sách về kinh tế cũng như trách nhiệm giải trình khi quyết định cuối cùng”.
Hiện nay, dư luận rất bức xúc trước thực trạng các nhóm lợi ích thân hữu và các băng nhóm xã hội đen đang thao túng nền kinh tế thị trường “định hướng XHCN” để trục lợi, làm mất uy tín của Chính phủ “kiến tạo và liêm chính” cũng như cản trở chủ trương chống tham nhũng của Đảng. Các nhóm lợi ích thân hữu và các băng nhóm xã hội đen liên kết với các quan chức biến chất ở trung ương và địa phương, để đối phó với người dân tại các dự án gây thảm họa môi trường (như Formosa và Vĩnh Tân), các khuất tất trong quy hoạch đô thị để chiếm đất của dân (như tại Thủ Thiêm), các trạm thu phí giao thông BOT gây tai tiếng.
Thay lời kết
Tuy chủ trương thống kê kinh tế ngầm là cần thiết, nhưng làm thế nào và nhằm mục đích gì vẫn còn chưa rõ và đang còn tranh cãi. Đây là một vấn đề phức tạp và hệ trọng, cần nghiêm túc học hỏi kinh nghiệm các nước khác, cũng như lắng nghe ý kiến các chuyên gia trong nước và ngoài nước, trước khi hoạch định và triển khai chính sách, nếu không sẽ lặp lại sai lầm như “chiến dịch giành lại vỉa hè” (2017). Nếu thống kê nhằm kiểm soát và bắt kinh tế ngầm phục vụ các mục tiêu trước mắt nhằm “làm đẹp con số” có thể phản tác dụng về lâu dài.
Nhưng nếu Việt Nam để Trung Quốc thao túng và lũng đoạn kinh tế ngầm thì cũng tai hại. Một khi Trung Quốc đã nắm được hầu hết các dự án chiến lược của Việt Nam, cung cấp thiết bị cho hệ thống mạng 5G (qua Huawei), nắm được hệ thống lưu thông hàng hóa (logistics), và hệ thống thanh toán online (qua Alipay, Tencent), họ sẽ tìm cách thao túng nốt kinh tế ngầm. Lúc đó, Trung Quốc có thể “chiếu tướng” (check mate) làm Việt Nam “hết cờ”, mà không cần dùng vũ lực. Vì vậy, phải nhìn nhận kinh tế ngầm ở Việt Nam trong bức tranh lớn về kinh tế, chính trị, và an ninh quốc gia, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, và đổi mới thể chế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét