Viet-studies - Nguyễn Quang Dy
Phần 1: Giải mã hiện tượng kinh tế ngầm
Kinh tế ngầm là một chủ đề khó, không chỉ với những người ngoại đạo mà còn với các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh doanh. Trong khi tài liệu tham khảo về kinh tế ngầm còn thiếu, quan niệm về kinh tế ngầm có nhiều bất cập. Điều đó phản ánh bản chất phức tạp và khó nắm bắt của kinh tế ngầm. Gần đây các chuyên gia tuy đề cập nhiều hơn đến quy mô và tầm quan trọng của kinh tế ngầm, nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi về động cơ và phương pháp thống kê. Bức tranh về kinh tế ngầm vẫn còn nhiều ẩn số, cần được giải mã để làm rõ hơn.
Quan niệm về “System D”
Trong bất kỳ nền kinh tế nước nào cũng có kinh tế ngầm, nhất là tại các nước đang phát triển có một nền kinh tế chuyển đổi, có thể chế lỗi thời và thói quen làm việc “du kích” như Việt Nam. Hiện nay, người ta thường gọi hệ thống kinh tế ngầm là “System D”. Đó là chữ cái của từ tiếng Pháp “debrouille”. Từ này có nghĩa gần giống như “manage” hay “make do” trong tiếng Anh, có nghĩa là có thể xoay sở và tồn tại được, bất chấp mọi khó khăn.
Trước đây, “System D” được biết đến chủ yếu tại các nước nói tiếng Pháp ở Châu Phi và vùng Caribbean. Ngày nay “System D” là thuật ngữ để chỉ năng lực thực dụng biết thích nghi nhanh và biến báo hiệu quả trước mọi tình huống khó khăn để đạt được mục đích. Trong kinh tế học, “System D” thường được hiểu là “kinh tế ngầm” (shadow economy) có đóng góp ngày càng lớn cho kinh tế thế giới. Theo các chuyên gia, GDP của “System D” là $10 trillion. (“The Shadow Superpower”, Robert Neuwirth, Foreign Policy, 28/10/2011).
Robert Neuwirth cho rằng không phải Trung Quốc, mà “System D” mới là siêu cường kinh tế lớn thứ hai thế giới, với GDP khoảng $10 trillion (mười ngàn tỷ USD) trong khi GDP của Mỹ khoảng $14 trillion và GDP của Trung Quốc khoảng $8 trillion (năm 2011). Đến nay chắc bức tranh kinh tế ngầm toàn cầu đã khác trước rất nhiều, vì “System D” có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới, thu hút một nửa tổng số nhân công trên toàn cầu.
Theo ước tính của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) kinh tế ngầm toàn cầu trị giá $650 billion (giai đoạn 2012-2014). Mặc dù khó xác định chính xác các hoạt động kinh doanh ngầm vốn đa dạng, nhưng nghiên cứu của WEF (2015) dự báo rằng chi phí mà nền kinh tế toàn cầu phải chịu vì hàng giả có thể lên tới $1.77 trillion (trong giai đoạn đó). Có nhiều nguyên nhân làm hoạt động kinh tế ngầm gia tăng, trong đó luật lệ quá nhiều và quá phức tạp, trong khi năng lực quản trị của các cơ quan nhà nước thường yếu kém và thiếu nhất quán.
Một số nước có nền kinh tế ngầm lớn hơn so với các nước khác. Trong khi kinh tế ngầm tại khu vực Châu Á có quy mô chiếm khoảng 26% GDP, thì kinh tế ngầm tại các khu vực khác chiếm khoảng 20%-60% GDP. Theo nguồn CafeF (25/12/2015), Ukraine là nước có nền kinh tế ngầm vào loại lớn nhất thế giới (chiếm tới 47% GDP, vào quý I/2015). Một trong những hoạt động kinh doanh ngầm phổ biến nhất tại Ukraine là buôn lậu, và vấn nạn tham nhũng là lý do chính khiến buôn lậu trở nên phổ biến. Ví dụ, sản xuất rượu trái phép là hoạt động kinh doanh có lãi nhất trong kinh tế ngầm của Ukraine, ước tính khoảng $1,1 tỷ (bằng 40% tổng sản lượng rượu cả nước), trong khi buôn lậu thuốc lá vào khoảng $360-$450 triệu.
Trong khu vực kinh tế ngầm, hai nghề phổ biến nhất là mại dâm và buôn ma túy. Theo Cục Thống kê Quốc gia Anh (năm 2014) nghề mại dâm đã đóng góp tới 5.65 tỷ bảng Anh cho nền kinh tế (chỉ thua con số buôn ma túy một chút). Tại Mỹ, nghề mại dâm tại bảy thành phố lớn đã đóng góp tới $975 triệu (năm 2007). Tại Tây Ban Nha, nghề mại dâm đóng góp gần $12 tỷ (tương đương 1% GDP). Tại Đức, nghề này đóng góp $91 tỷ (năm 2013). Tại Pháp là 3,2 tỷ euro/năm. Tại Hà Lan là 2,5 tỷ euro/năm. Theo một báo cáo của Liên Hợp Quốc (năm 2013) nghề mại dâm tại Trung Quốc đóng góp $154 tỷ (bằng 6% GDP), với con số gái mại dâm hành nghề chuyên nghiệp vào khoảng 4-6 triệu người (Zing, 13/1/2018).
Theo giáo sư Friedrich Schneider (Johannes Kepler University, Austria) kinh tế ngầm của 21 trong số 30 quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chiếm khoảng 16,8% GDP (năm 1999), giảm còn 13,3% (năm 2008) nhưng tăng lên 13,8% (năm 2012). Schneider cho rằng một phần lớn kinh tế ngầm của Hy lạp đã bổ xung cho nền kinh tế chính thức, gồm cả GDP và phúc lợi xã hội. (“Greece’s shadow economy: Blessing or curse?”, Friedrich Schneider, the Economist, October 19, 2012). Theo một nghiên cứu mới (2/2017) của Viện Nghiên cứu Kinh tế Ứng dụng (Tubingen University, Germany) kinh tế ngầm của Hy Lạp là 21,5% GDP, của Ý là 19,8% GDP, của Tây Ban Nha là 17,2% GDP, của Canada là 9,8%GDP, của Nhật là 8,6% GDP, của Mỹ là 5,4% GDP, trong khi của Nga tới 39% GDP.
Hiện nay, các nhà phân tích buộc phải xem xét lại đánh giá của mình khi có hàng chục triệu người trên thế giới mất việc. Theo chuyên gia kinh tế William Maloney (World Bank), “Khu vực kinh tế ngầm sẽ thu nhận nhiều người và giúp họ có nguồn thu nhập”. Đặc biệt trong giai đoạn suy thoái kinh tế, kinh tế ngầm giúp người dân tồn tại. Ở Ấn Độ, tuy kinh tế đạt mức tăng trưởng cao trong những năm gần đây, nhưng chính khu vực kinh tế ngầm mới tạo ra nhiều việc làm, chứ không phải là những tập đoàn danh tiếng (như Infosys và Reliance Industries). Vì hệ thống kinh tế ngầm tồn tại khách quan như một thực tế không thể chối cãi và tăng trưởng nhanh, nên chính quyền các nước phải chấp nhận sống chung với nó.
Thực trạng “System D”
Thuật ngữ “System D” thường gây ấn tượng “dễ dãi” (carefree) và “thân thiện” (friendly). Nhưng đồng thời nó cũng nhấn mạnh một đặc tính quan trọng là những gì đang diễn ra tại các khu chợ (không có đăng ký) và các kiosks bên lề đường (trên khắp thế giới) không phải là “hỗn độn” (haphazard), mà là sản phẩm của trí tuệ (intelligence), tinh thần bền bỉ (resilience), biết cách tự tổ chức (self-organization) và đoàn kết (solidarity).
Kinh tế ngầm không xuất hiện trên màn hình radar và không chịu sự kiểm soát của chính phủ (đặc thù của “System D”). Nó dựa trên tính sáng tạo (ingenuity) sự biến báo (improvisation) và tự lực (self-reliance). Hầu hết họ là những tiểu thương có đầu óc kinh doanh (entrepreneurial) có động lực (motivated) và sáng kiến (inventive), nên có nhiều tiềm năng/tài năng (resourceful / ingenious ) và hoạt động hiệu quả (effective). Họ không đăng ký kinh doanh, không đóng thuế và không bị chi phối bởi bộ máy hành chính quan liêu (bureaucracy).
Giáo sư Friedrich Schneider đã dành mấy chục năm nghiên cứu vai trò và giá trị của các nền kinh tế ngầm trên thế giới. Theo Schneider, ranh giới giữa kinh tế ngầm và kinh tế chính quy (legal economies) rất khó xác định (như cái chợ bazaars ở nhiều nước). Khi thương mại được toàn cầu hóa, “System D” cũng không ngừng lớn mạnh. Căn cứ vào cách tính GDP của World Bank, Schneider ước tính tổng giá trị giao dịch ngầm của “System D” trên toàn cầu vào khoảng $10 trillion (năm 2006). Đó là siêu cường kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ (với GDP là $14 trillion). Ngày nay, “System D” là nền kinh tế phát triển nhanh hơn bất cứ nền kinh tế nào và trở thành thế lực đang nổi lên trong thương mại toàn cầu.
Theo một nghiên cứu của ngân hàng Deutsche Bank (năm 2009), trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế (2008), những công dân của các nước mà “System D” phát triển mạnh sống khá hơn là những người dân ở các nước có nền kinh tế tập trung bao cấp và bị kiểm soát chặt chẽ. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế gần đây nhất, những người cùng quẫn thường tìm đến “System D” để có thể tồn tại. Vì vậy, sẽ vô nghĩa nếu người ta cứ nói về phát triển bền vững hay toàn cầu hóa mà không quan tâm đến yếu tố sống còn của “System D”.
Một báo cáo của tổ chức OECD ước tính một nửa nhân công trên thế giới (gần 1,8 tỷ người) đang làm việc cho “System D”, nhưng không có trong sổ sách. Họ không đăng ký và không bị chi phối bởi nhà nước, trong khi thu nhập bằng tiền mặt và trốn thuế thu nhập. Đến năm 2020, vào khoảng 2/3 nhân công trên thế giới sẽ làm việc cho “System D”. Đây là một hệ thống ứng phó (spontaneous system) được vận hành bởi sự biến báo có tổ chức (organized improvisation), là một yếu tố quan trọng để các đô thị phát triển trong thế kỷ 21.
Ngày nay “System D” còn cung cấp các dịch vụ thu gom rác thải, tái chế, vận chuyển, thậm chí cả điện nước. Nói cách khác, “System D” là tương lai của kinh tế toàn cầu, vì sự phát triển của nó mở cửa thị trường cho những người lâu nay bị đóng cửa. “System D” là hệ thống kinh tế thay thế (alternative) đem lại cho mọi người dân cơ hội việc làm. Ngay trong trường hợp khó khăn nhất, những công dân của “System D” cũng có cuộc sống khá hơn.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008, nhiều doanh nghiệp thoát hiểm là nhờ vào các hoạt động kinh tế ngầm, đã đem lại dịch vụ và việc làm cho hàng tỷ người trên thế giới. Có thể nói “System D” hầu như là vô địch trong việc quảng bá công nghệ mới cho người nghèo với chi phí thấp. Theo YaleGlobal, trong khi các nền kinh tế phương Tây đang bị suy thoái, thì kinh tế ngầm tiếp tục tăng trưởng, vì vậy phải quan tâm đến “System D”.
Sự phát triển của “System D” là một thách thức lớn đối với các chuẩn mực kinh tế và quản trị kinh doanh, vì nó tồn tại bên ngoài khuôn khổ các hiệp định và quy chuẩn thương mại. Nhưng “System D” phổ biến công nghệ ra thế giới với chi phí mà người nghèo cũng có thể tiếp cận. Nó phân phối sản phẩm công bằng hơn và rẻ hơn bất cứ một doanh nghiệp lớn nào khác. “System D” có tiềm năng rất lớn như một “siêu cường kinh tế”, nhưng nó vẫn chưa có đồng tiền thanh toán hay phương thức thanh toán nào thích hợp để vận dụng cho nó.
Đã có lúc người ta hy vọng có thể chọn bitcoin làm đồng tiền của “System D”, vì nó tiện dụng và được sử dụng rộng khắp trên toàn cầu. Nhưng mỗi khi đồng bitcon bị mất giá thì hy vọng đó cũng mất dần. Vì vậy, người ta vẫn phải tìm một phương thức thanh toán phù hợp với đặc điểm của “System D”, như ứng dụng các giải pháp công nghệ mới dựa trên mobile platform cho hệ sinh thái kinh tế ngầm. Đây là một thực tế mới đặt ra cho các nhà quản lý cũng như các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đầu tư, thanh toán và lưu thông hàng hóa…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét