Viet-studies - Nguyễn Quang Dy
Phần 2: Đặc điểm kinh tế ngầm ở Việt Nam
Cải cách thể chế toàn diện (hay đổi mới “vòng hai”) là đòi hỏi cấp bách để Việt Nam tháo gỡ những điểm tắc nghẽn về thể chế làm đất nước tụt hậu và tham nhũng gia tăng. Đổi mới “vòng hai” không chỉ nhằm tháo gỡ thể chế kinh tế bị ách tắc mà còn nhằm cải tổ thể chế chính trị đã lỗi thời, làm tắc ngẽn dòng chảy kinh tế. Cải cách thể chế toàn diện sẽ tác động đến nhiều lĩnh vực trong đó có kinh tế ngầm. Gần đây chính phủ quan tâm muốn thống kê kinh tế ngầm để đưa vào GDP, nhưng vẫn chưa rõ sẽ thống kê như thế nào. Cần tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi” dẫn đến thất bại như “chiến dịch giành lại vỉa hè” (năm 2017).
Quan niệm về kinh tế ngầm
Kinh tế ngầm là một thực thể phức tạp và khó định lượng, nhất là trong một nền kinh tế chuyển đổi (transitional economy), có thành phần kinh tế đa dạng, có hệ thống quản trị bất cập và manh mún, nên dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Tuy nhiên, Chính phủ đã yêu cầu bộ Kế hoạch Đầu tư “hoàn thiện đề án thống kê khu vực kinh tế ngầm để báo cáo trước 30/1/2018”. Tuy kinh tế ngầm đã tồn tại từ lâu ở Việt Nam, nhưng đây là lần đầu tiên chính phủ có đề án thống kê. Báo chí chính thống đã nhanh chóng “vào cuộc”, nhưng cũng nhanh chóng “bỏ cuộc”.
Tuy việc thống kê kinh tế ngầm là cần thiết, nhưng làm thế nào thật không đơn giản. Trên thực tế, việc thống kê các thành phần kinh tế không phải ngầm cũng đã bộc lộ nhiều bất cập. Chỉ riêng việc thống kê số liệu xuất nhập khẩu qua đường “tiểu ngạch” cũng còn chưa làm được. Chênh lệch về số liệu xuất nhập khẩu giữa hải quan Trung Quốc và hải quan Việt Nam khoảng $20 tỷ/năm. Mỗi năm có khoảng $3 tỷ vốn chạy ra nước ngoài, nhưng các cơ quan chức năng vẫn bất lực, chưa kiểm soát được. Cách tính GDP của Việt Nam cũng khác so với thế giới, tuy GDP không phải là “đũa thần” để đánh giá sức khỏe nền kinh tế.
Trong cuốn sách The Growth Delusion: Why GDP is misleading (Financial Times, 10/1/2018), David Pilling đã phân tích khiếm khuyết của GDP như “một thước đo kinh tế dễ gây ngộ nhận (misleading). Tác giả cho rằng GDP không phải là một chỉ số chính xác để đo sức khỏe kinh tế của mọi quốc gia. GDP (Gross Domestic Product) được chuyên gia kinh tế Simon Kuznets đề xuất từ thập niên 1930, để lý giải chính sách tài khóa của Mỹ thời kỳ “New Deal”. Nhưng theo Pilling, “Từ khi áp dụng GDP, chúng ta chưa bao giờ giàu hơn hay hạnh phúc hơn”. Vì vậy các chỉ tiêu chính sách không nên chỉ dựa trên GDP mà phải vận dụng các cách thống kê mới, như “Chỉ số Phát triển Con người” (Human Development Index) mà chuyên gia kinh tế người Pakistan Mahbub Ul Haq đã nghiên cứu và đề xuất (năm 1990).
Chuyên gia thống kê của LHQ Vũ Quang Việt cũng đã đề xuất một phương pháp tính GDP mới (năm 2008) dựa trên sản xuất (production approach) gọi là HUEM (household unincorportated enterprises). Phương pháp này khác với phương pháp của World Bank ở chỗ HUEM thu thập số liệu hàng tháng/hàng quý, còn World Bank thu thập 5-10 năm một lần. Phương pháp HUEM dựa vào thống kê và thu thập số liệu thường xuyên nhằm tạo ra dãy số cập nhật theo thời gian. Theo ông Việt, nếu lấy con số tưởng tượng 30% (chưa tính vào GDP) rồi nhân lên với GDP tính thường xuyên từng quí thì không có giá trị gì mà không bị nhầm lẫn. Vậy đưa nó vào thống kê chính thức làm gì nếu không tính thường xuyên và không thể tin cậy.
Theo tài liệu của OECD (năm 2002) và Hệ thống Tài khoản Quốc gia phiên bản 2008 (SNA, 2008), khu vực kinh tế chưa được quan sát (Non-Observed Economy) bao gồm kinh tế ngầm (Underground Economy), khu vực kinh tế phi chính thức (Informal Sector), các hoạt động kinh tế phi pháp (Illegal Economic Activity), và hoạt động kinh tế tự sản tự tiêu (production for own consumption). Tất cả các nước trên thế giới đều có kinh tế ngầm, nhưng ngay cả ở những nước có nền quản trị tốt, tính minh bạch cao, cũng rất khó khăn trong việc thống kê định lượng chính xác. Khu vực kinh tế chưa được quan sát là một bộ phận của nền kinh tế quốc gia, cần được đo lường, đưa vào hệ thống tài khoản quốc gia, trong đó có chỉ tiêu GDP, nhưng làm thế nào là một câu chuyện nan giải, gần như “bất khả thi” (mission impossible).
Theo một nghiên cứu gần đây của Đại học Fulbright (Tuổi trẻ, 18/01/2018) kinh tế ngầm Việt Nam chiếm khoảng 25-30% GDP (tương đương $60 tỷ) bao gồm cả kinh tế phi chính thức và kinh tế bất hợp pháp, đang được thừa nhận như một thực tế cuộc sống. Khu vực kinh tế phi chính thức thu hút khoảng 60% lao động trong xã hội, nhưng lâu nay thường bị bỏ sót trong các số liệu thống kê chính thức. Đến nay, nhà nước vẫn chưa thể phân loại, thống kê, ghi chép, theo dõi và quản lý được kinh tế ngầm, nên hy vọng sắp tới sẽ nhận diện được thêm10-15% quy mô của khu vực này trong các chỉ số GDP. Trong nhiều trường hợp, kinh tế ngầm không nhất thiết là kinh tế bất hợp pháp. Một nguyên nhân quan trọng khiến kinh tế ngầm phát triển mạnh là do luật lệ quá phức tạp và không rõ ràng, trong khi chính sách thuế quá cao cũng khuyến khích các giao dịch phi chính thức. Nhưng xét theo ý nghĩa tích cực, kinh tế ngầm là mạng lưới an sinh cho nền kinh tế, vì nó hấp thụ tốt những cú sốc do khủng hoảng.
Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng kinh tế ngầm thường không có giấy phép và không đóng thuế, giá trị giao dịch không thể hiện trong sổ sách kế toán. Thành phần kinh tế ngầm gồm cả hoạt động kinh doanh hợp pháp và phi pháp, giao dịch thường bằng tiền mặt nhưng không có hóa đơn, lâu nay không được đưa vào sổ sách. Các giao dịch này được thực hiện không có sự kiểm soát của nhà nước, nhằm trốn thuế hoặc tránh bị các cơ quan kiểm tra phát hiện. Nhưng kinh tế ngầm không đồng nghĩa với “chợ đen” (chủ yếu tiêu thụ hàng hóa trộm cắp) và các hoạt động kinh doanh phi pháp khác (như buôn ma túy, mại dâm, cờ bạc).
Kinh tế ngầm ở Việt Nam
Kinh tế ngầm tuy tồn tại âm thầm nhưng khá hiệu quả. Hiện nay, quan điểm của các chuyên gia còn khác nhau. Theo ĐBQH Trần Anh Tuấn (Quyền Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển, TP Hồ Chí Minh) kinh tế ngầm không phải là những hoạt động xấu. Nếu kiểm soát tốt đó còn là thành phần bổ trợ cho kinh tế chính thức phát triển. Kinh tế ngầm tại Việt Nam được xếp vào loại khá cao trên thế giới. Nhưng trên thực tế, khái niệm kinh tế ngầm đang bị hiểu theo hướng tiêu cực nhiều hơn, vì dễ bị liên hệ tới các hoạt động kinh doanh phi pháp.
Theo ông Tuấn, những hoạt động như rửa tiền và buôn bán vũ khí ở một số nước được coi là kinh tế ngầm, vì các nước này (như Mỹ) vẫn cho phép người dân được buôn bán vũ khí. Nhưng ở Việt Nam, những hoạt động nói trên thường được hiểu là những hoạt động phi pháp cần phải ngăn chặn và xử lý (vì Việt Nam không cho phép buôn bán vũ khí). Những hoạt động chuyển tiền không theo quy định của pháp luật cũng bị coi là phạm pháp, không nằm trong cấu trúc nền kinh tế nên nó không thuộc thành phần kinh tế “không chính thức”.
Tiến sĩ Võ Hồng Đức (Perth, Australia) cho rằng quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam dao động trong khoảng 20% – 50% GDP (giai đoạn 1990-2013), đặc biệt gia tăng đáng kể trong giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á (2007-2008). Theo ông Võ Hồng Đức, kinh tế ngầm có 6 nguyên nhân biến thiên là: (1) thuế suất, (2) chi tiêu chính phủ, (3) tự chủ tài chính, (4) tự do lao động, (5) tự do kinh doanh, (6) tỷ lệ thất nghiệp. (“Xác định Quy mô Kinh tế ngầm Việt Nam”, International Journal of Economics and Finance, September, 2014).
Trong một thể chế độc quyền, tư duy quản trị điển hình là cái gì cũng muốn quản lý (tuy năng lực quản lý kém) và cái gì không quản lý được thì cấm (tuy bất lực không cấm được). Điều này càng đúng với đặc thù kinh tế ngầm, vì không có một chính phủ nào cấm được hoạt động của kinh tế ngầm. Nó tồn tại và phát triển theo quy luật “cung – cầu”: ở đâu có cầu thì sẽ có cung, và cầu càng cao thì cung càng nhiều. Một đất nước có 92,7 triệu dân (năm 2016) là một thị trường có nhu cầu khổng lồ. Một chính phủ dù có năng lực quản trị tốt (như Singapore) cũng không thể đáp ứng được, nói gì đến một chính phủ có năng lực quản trị kém (như Việt Nam). Hay nói cách khác, khi Việt Nam phải bán các doanh nghiệp hàng đầu (như Vinamilk và Sabeco) vì quản trị kém hay cần tiền, thì làm sao có thể quản trị được kinh tế ngầm.
Vì vậy, các chuyên gia kinh tế và quản trị cần điều chỉnh cách nhìn kinh tế ngầm đang diễn ra trên vỉa hè, tại các chợ cóc và hàng quán ở Hà Nội và các đô thị trên toàn quốc. Chính họ đã góp phần cưu mang cuộc sống của hàng triệu người dân sống sót qua chiến tranh, chịu đựng mọi thiếu thốn của thời bao cấp, và nay là vấn nạn tham nhũng khi các nhóm lợi ích thân hữu và thế lực “tư bản đỏ” lợi dụng thể chế yếu kém để vơ vét và “ăn của dân không chừa một thứ gì”. Nếu không có kinh tế ngầm thì làm sao chúng ta có thể lý giải được sự tồn tại tưởng chừng vô lý và sức sống bền bỉ đến kinh ngạc của người dân Việt Nam. Nói cách khác, kinh tế ngầm rất gần với khái niệm chiến tranh du kích (hay “chiến tranh nhân dân”).
Trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Trong khi nhập siêu (chính thức) mỗi năm trung bình hơn 30 tỷ USD (năm 2018 giảm còn 28 tỷ USD), nhập siêu theo đường “tiểu ngạch” (phi chính thức) là gần 20 tỷ USD. Đó là một tỷ lệ khổng lồ trong một nền kinh tế hàng hóa còn yếu kém như Việt Nam (vẫn chưa công nghiệp hóa). Điều này khẳng định quy mô và vai trò của kinh tế ngầm trong nền kinh tế thị trường què quặt của Việt Nam, khi quá trình chuyển đổi cơ cấu và cải cách thể chế còn ách tắc.
Về thương mại, đó là sự tồn tại âm thầm nhưng sống động của thị trường “tiểu ngạch” trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc với giá trị nhập siêu khoảng $20 tỷ/năm, bất chấp mọi trở ngại qua các thời kỳ sóng gió trong quan hệ hai nước. Tại Sài Gòn, đó là sức sống năng động của kinh tế ngầm tại Chợ Lớn, trải qua các biến cố bất thường của thời kỳ chiến tranh cũng như thời hậu chiến với sự biến động của chế độ chính trị. Tại Hà Nội, đó là sự phục hồi và sức sống mãnh liệt của khu phố cổ Hà Nội, là “hồn cốt” của thủ đô với “36 phố phường” như một cái chợ bazaar khổng lồ có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với khách du lịch thập phương.
Trên đây là vài ví dụ điển hình về bức tranh sinh động của kinh tế ngầm ở Việt Nam, với nhiều hình thái và thành phần đa dạng trong nền kinh tế thị trường “định hướng XHCN”. Chắc nhiều người không biết ông chủ ngôi “biệt thự gà vàng” khá độc đáo gần Ngõ 1 phố Hoàng Quốc Việt là ông “Thanh Sắt”, vốn làm nghề buôn “đồng nát”. Nhưng ông “Thanh Sắt” còn thua xa ông “Đường Bia” là chủ tòa nhà “Hòa Bình tower” tọa lạc tại phố Hoàng Quốc Việt, và các khách sạn cao cấp “rát vàng” nổi tiếng tại Đà Nẵng, Hội An, và Hà Nội.
Khi đoàn Tổng thống Donald Trump sang dự Hội nghị Cấp cao APEC tại Đà Nẵng (10/2017), và khi tàu sân bay USS Theodore Roosevelt đến thăm Đà Nẵng (3/2020) người Mỹ đã quyết định chọn khách sạn “Golden Bay” của ông “Đường Bia”. Chắc nhiều người không biết ông “Đường Bia” là bộ đội phục viên, từng làm nghề đạp xích lô chở bia thuê cho nhà máy bia Hà Nội. Những người như ông “Thanh Sắt” hay “Đường Bia” đã làm giàu và đi lên từ “kinh tế ngầm”, trong nền kinh tế thị trường “định hướng XHCN” đa thành phần.
Dù làm nghề “đồng nát” (như ông Thanh) hay “chở bia thuê” (như ông Đường) hay hàng triệu người Việt khác đang “buôn thúng bán mẹt”, họ không phải là “ký sinh trùng”. Trong khi Việt Nam có những “làng tỷ phú đồng nát” (như ở Bắc Ninh), thì nhiều người Việt sang Liên Xô-Đông Âu đã trở thành “đại gia” nhờ kinh tế ngầm. Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Việt Nam là một “cường quốc đồng nát”, với đặc thù văn hóa “hàn soong hàn nồi”.
Tác động của kinh tế ngầm không chỉ về kinh tế mà còn cả về giáo dục, văn hóa, xã hội. Các nhà giáo dục Việt Nam hãy suy ngẫm tại sao những đứa trẻ cơ nhỡ người Mông ở Sapa nói được tiếng Anh? Tại sao ngày càng nhiều người Mông ở vùng cao vùng xa nói tiếng Anh còn thạo hơn cả tiếng Kinh? Đó không phải là sản phẩm của “xóa đói giảm nghèo” hay những dự án “cải cách giáo dục” hoành tráng nhưng thường thất bại, làm thất thoát hàng trăm triệu USD tiền viện trợ ODA và ngân sách nhà nước hay tiền thuế của dân. Đó là sản phẩm phụ của kinh tế ngầm và toàn cầu hóa, khi dòng người du lịch nước ngoài kéo đến Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét