KỲ III
“Trên hành trình sáng tạo, nhà văn không chỉ thấy chiếc bóng của những thực thể hữu hình, sản phẩm của ánh sáng, mà là cả chiếc bóng vô hình, linh hồn của vạn vật”.
Phạm Viêm Phương: Sau biến cố 1975, phần lớn nhà văn đã thành danh thời Cộng Hòa ở lại trong nước đã bỏ bút. Riêng ông cầm bút trở lại, sức viết lại sung mãn hơn xưa. Xin ông cho biết vì lý do gì?
Cung Tích Biền: Bất cứ vì lý do gì, một nhà văn khi còn sức viết mạnh mẽ, mà không thể viết được nữa là một bất hạnh. Khi “Không còn được viết nữa”, vì những lý do áp bức, cường quyền, vì chữ-nghĩa-bị-gông-cùm, ta phải cố mà thoát khỏi cái bất hạnh ấy.
Trong hoàn cảnh một Việt Nam Hôm nay, một nhà văn khi còn sức viết mà không được viết, chỉ là bất hạnh thứ nhất. Nếu anh buông xuôi, chữ nghĩa anh sẽ chết, anh đành phải sống, trong thảm cảnh chết dần. Nếu anh viết tiếp với lòng trung thành, nhân văn, với cái gan nói ra sự thật, bất hạnh sẽ được nhân đôi. Đó là sự trừng trị từ phía nhà đương quyền.
Anh bảo rằng ngòi bút tôi sung mãn, sâu sắc, về sau?
Chính một giai đoạn lịch sử cuồng nghịch, xã hội con người dần biến ra một nhung nhúc tử thi, xú uế tối tăm, chính đó, đã tạo ra cho mỗi con người một sức bật mạnh mẽ để thoát ly.
Mỗi thoát ly một tính cách biểu hiện. Có người dương khẩu hiệu, cầm đao kiếm. Tôi là nhà văn, tôi trút vào chữ nghĩa. Chữ nghĩa, cũng là một loại thuốc nhuộm màu cho tâm cảm, tâm thức con người.
Phạm Viêm Phương: Nhưng vì sao ông cầm bút trở lại vào năm 1987 mà không là sớm hơn hay muộn hơn?
Cung Tích Biền: Lý do trực tiếp nhất là do/từ, một “Hy vọng về một tương lai chính trị, cho một Việt Nam không còn bị độc đảng toàn trị”. Từ những năm giữa thập niên 1980, những biến chuyển chính trị và xã hội lớn lao, từ nội bộ các nước Đông Âu và Đế chế Sô Viết, đã tỏ rõ là thời kỳ mùi chín để tự kết liễu. Các chế độ Xã hội Chủ nghĩa, sau đó nối tiếp nhau tan rã. Thể chế đa nguyên đã hình thành tại các nước này.
Lúc bấy giờ, dân chúng Việt Nam rất mực mong chờ một sự đổi đời. Nhưng những ngày “Mới” không hề tới, như ý nguyện của muôn người.
Trong cái ánh sáng hắt hiu của mong chờ, trong ngỡ ngàng của hy vọng dần tan, như một phục sinh từ lòng một chiếc áo quan, tôi cảm thấy mình “Có thể sống lại”. Một nhà văn, gọi rằng hắn ta còn sống, đang sống, khi hắn ta còn viết.
Việc cấp thiết là cầm bút trở lại, sau 12 năm gác bút. Được viết như được thở.
Truyện đầu tiên [1987] là Dị Mộng. Cuộc tái sinh này, là, Một Trở Lại ngậm ngùi. Một Lên Đường, vẫn trong sương mù.
Nhân vật truyện, Trần Khương Bật, một con người đang tuổi trung niên, đã chết, đã được tẩm liệm hẳn hoi trong áo quan đậy nắp. Nhưng Bật bỗng sống lại. Một cuộc đời khác. Một linh hồn tái sinh, một bộ não được tái khởi động, nhưng từ một hiện thực còn đóng kín bóng tối, Khương Bật đành phải sống trong kiếp người giả câm giả điếc. Khi cần thiết phải Nói-Ra, để thể hiện một quyền tối thiểu của con người, là hộc máu. Khương Bật chết vào một đêm thiêng liêng giao thừa, mồm ngậm máu oan, khi khói hương được con cháu thắp sáng trên bàn thờ tổ tiên.
Phạm Viêm Phương: Như thế, khá nhiều tác phẩm của ông hình thành từ những dấu ấn thời cuộc, ông nghĩ gì về mối liên hệ giữa văn chương và chính trị?
Theo cái nghĩa rộng của từ chính trị, thì văn chương không bao giờ thoát khỏi nó; hiện thực chính trị, hậu quả chính trị, ám ảnh chính trị; thêm/ và, món quà tiền bạc, quan tước, mà “người chính trị” ân thưởng cho “kẻ văn chương”.
Nhà văn luôn phải thể hiện chính kiến của mình, qua tác phẩm. Giữ cho chữ nghĩa, hình thức thẩm mỹ lẫn nội dung còn là “dung nhan” văn chương; không bị chính trị “dắt mũi”, sai khiến, quả là rất khó khăn. Làm sao để một truyện ngắn truyện dài không là một bài xã luận chính trị, một thông/báo cáo, một phiếu bầu ủng hộ nhà đương quyền, toa rập với những điều phi nhân nghĩa, là do thái độ của nhà sáng tác.
Có một chỗ cốt lõi, cũng là một phẩm hạnh và lòng trung thực với những gì đích thực là văn chương, thì nhất thiết, “không thể dùng văn chương của mình làm tay sai, là con tin cho chính trị”.
Chế độ độc đảng, độc quyền, chuyên chế nào cũng xem văn chương là nàng xinh đẹp, cái đối tượng để dụ dỗ, cưỡng hiếp. Nàng là của mình, phải phục vụ cho mình.
Ngã rẽ cuộc đời là rất khó khăn đối với một nhà văn, để, “Anh đường anh, tôi đường tôi”.
Chỗ này không phải nói suông mà được. Hãy xem một nhà văn, họ đã sống như thế nào, và đã viết những gì, thì ta mới cho ra một câu trả lời thỏa đáng.
Phạm Viêm Phương: Vậy ông làm thế nào để vượt qua “số phận” hiểm nghèo này của văn chương.
Cung Tích Biền: Phải răn đe với chính mình. Phải mang chữ nghĩa của mình “vượt biên” ra khỏi chốn nơi cưỡng bức tư tưởng, bôi nhọ tự do. Phải giữ cái dung nhan Nàng-xinh-đẹp, là chính Nàng. Phải luôn hiểu “Mình chỉ đến với văn chương, văn chương là cứu cánh”.
Xã hội chúng ta qua bao thập kỷ, bao cuộc biến thời cuộc, luôn bị chính trị, hay ít ra ảnh hưởng chính trị áp đảo. Bất cứ một sinh hoạt xã hội nào cũng dưới áp lực chính trị; được/bị chính trị hóa. Người cầm bút phải luôn nhật tụng, “Dù viết bất cứ những gì cũng phải trong cung cách, bản thân văn chương”.
Cuộc tách thoát là rất khó khăn.
Tôi viết “Ngoại ô Dĩ An và Linh hồn Tôi”, tháng 11 năm 1965, là lúc những con đường Việt Nam đã có dấu xích xe tăng Mỹ. Lúc này, tôi là một sĩ quan cấp úy thuộc Sư đoàn 21 bộ binh, Bộ Tư lệnh đóng tại thành phố Bạc Liêu.
Đã qua thời kỳ những người Mỹ ít ỏi có mặt tại Miền Nam Việt Nam trong vai trò cố vấn, tháng 3 năm 1965, một binh đoàn tác chiến của quân đội Mỹ đã đổ bộ lên cảng Non Nước, Đà Nẵng, để tham dự trực tiếp vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ đó, chiến trường mở rộng, đồn lũy to lớn của quân đội Mỹ có khắp nơi ở Miền Nam. Trong núi rừng, giữa phố thị, trong các lũy tre làng Việt Nam, từ đây, đã có những biển người của quân đội Miền Bắc, và những thi hài của người lính viễn chinh Mỹ. Và, trên xứ sở thân yêu, đã có những cô gái Việt Nam – như nàng Dĩ An - mang thân phận không may, vì thảm cảnh điêu tàn từ chiến tranh đã mở rộng cửa.
Năm 1968 tôi viết “Bạch Hóa”, năm cuộc nội chiến đã lên đỉnh điểm, lộ rõ mặt “huyết nhục tương tàn”. Cán bộ Sáu Vu nhân danh cách mạng một đêm khuya về tụ họp dân chúng chứng kiến việc mình chặt đầu cha của mình, vì ông ta là một chủ tịch xã dưới chế độ Cộng hòa.
Cùng lúc, “Tết Mậu thân”, cũng những người con thân yêu của Huế ấy, trong những ngày thiêng liêng thờ cúng ông bà, ngày vui xuân chí mạng, họ đã lập tòa án nhân dân để giết người lương thiện, và tạo bao nhiêu nấm mồ chôn sống tập thể.
Anh thấy đó, “Viết về nó”, nói rõ, vạch rõ sự kiện, đứng giữa máu xương lửa đạn, sự thù hằn, mưu oan hiểm độc, thái độ người cầm bút phải trái rất phân minh, nhưng phải cố gắng giữ sao cho “cái chữ” ngoài hình dung, trong xác cốt, phải là văn chương.
Phạm Viên Phương: Ông đã có hơn nửa thế kỷ cầm bút và vẫn giữ được sức viết khi đã ngoài tuổi tám mươi. Tôi nghĩ rằng điều đó chắc hẳn dựa trên một nỗ lực tìm học và trầm tư không ngừng (ta tạm gác bỏ yếu tố sức khỏe). Ông có thể cho bạn đọc và thế hệ trẻ biết nên làm gì, tìm đọc những lãnh vực gì, rèn luyện gì để giữ bút lực sung mãn như thế không?
Cung Tích Biền: Đúng là phải nỗ lực tìm học, hàm dưỡng, trầm tư không ngừng, miệt mài làm việc. Hành trình của một nhà văn là kẻ-đan-lưới-chữ, khác với một thi sĩ. Nhà thơ có tác phẩm để đòi, đôi khi, chỉ qua vài phút nhập thần, một thoáng hiển linh câu chữ biến ra lời kinh.
Cuộc sống của tôi dai dẳng, khá phóng khoáng, lưu linh bạt mạng, trên cái nền chung hào hoa, hòa mình, gìn giữ cái tình thân với mọi người. Về đời văn, những gì tôi tự thân thực hiện và cố gắng gìn giữ, đương nhiên là trong chừng mực tôi có thể, khi còn sống còn viết, là những điều dưới đây.
1- Khiêm cung – một nghĩa nới rộng của khiêm tốn. Để tránh sự tự mãn và thậm xưng. Hiểu rằng, luôn luôn, lúc nào, mình cũng chỉ là một đóng góp nhỏ nhoi, chưa có thành tựu gì lớn lao. Lịch sử văn học, thế giới cổ kim của tạo tác trong văn chương nghệ thuật, là một núi rừng vĩnh cửu bao la, liên tục thay đổi và, luôn tiếp nối. Mỗi cây mỗi chiếc bóng, một vị trí nhỏ/ riêng. Mỗi riêng/nhỏ, may mắn là một đóng góp cho toàn cảnh, mà thôi.
Khiêm cung để mở rộng cõi lòng. Không khích bác, chê bai ai, không bầy đàn để áo thụng vái nhau. Luôn nhìn lại những sai trái của mình để chỉnh sửa, không lưu tâm tới những dư luận tin đồn ác ý, đặt điều, vu oan.
Khiêm cung là một thứ thuốc bồi bổ sức khỏe thượng hạng, không phải mất sức lên lớp ai, chẳng cãi cọ cùng ai.
2- Thành thật. Muốn nỗ lực tìm học, trước tiên phải thành tâm nhận ra sở học của mình còn thiếu/ kém. Xem đó là một “điểm chết” đầu tiên, cần phải có mục đích dài hạn theo đuổi, để thoát tối tăm, tăng dần sở kiến.
Khiêm tốn và thành thật, là yếu tố dễ dàng tiếp cận cái mới, những trào lưu mới, luôn biết tôn trọng những phát biểu của người khác, thậm chí những phát biểu ấy trái ngược với quan điểm của mình.
Khiêm tốn và thành thật, kết hợp với tài năng và sự thông tuệ, sẽ sinh ra sự bao dung tự tại. Sự minh sáng của tự tại sẽ tỏa ra những điều lớn lao lẫn tế vi, trong cuộc sống.
Trên hành trình sáng tạo, nhà văn không chỉ thấy chiếc bóng của những thực thể hữu hình, sản phẩm của ánh sáng, mà là cả chiếc bóng vô hình, linh hồn của vạn vật.
3- Hiểu ra sự ràng buộc. Nghề văn khác biệt rất nhiều những ngành nghề khác. Vị bác sĩ chữa bá bịnh. Nhà văn nhức đầu thì bác sĩ cứu chữa. Không có thuốc bổ não, thuốc tăng sức tưởng tượng, mơ mộng nào để viết văn hay.
Khó thể tin rằng có học vị tiến sĩ văn chương, thật đáng trân trọng, là đương nhiên trở thành một nhà văn. Trường Đại học Văn khoa bao thế hệ, nhiều nghìn sinh viên, đã sản sinh ra bao nhiêu nhà văn, qua tác phẩm, đúng với danh nghĩa.
Trường dạy Viết văn, hữu ích thật đấy, ở chỗ dạy người làm văn, làm con đều được buộc vào đầu một sợi dây. Từng ấy tầng cao, tung bay “phấn khởi” lắm, nhưng thế giới rộng trải của chính nó, là chỉ cố định, ở đầu một sợi dây. Dạy viết văn? là nơi chuyên nghiệp đẽo gọt, bào mòn trơn tru góc cạnh cá tính, nơi trợ lực để thủ tiêu tài hoa, gây thương tật cho những Đích-thị-văn-tài.
Hiểu ra những ràng buộc, những chỉ định phương hại tới dòng chảy tư/ý tưởng khi sáng tác, người cầm bút mới chấp nhận, dấn mình vào cuộc vượt thoát. Dứt bỏ những chướng ngại ma cỏ, những thường tình ươn thiu; để hướng tới những viễn kiến, tiên tri, dự phóng, vọng tưởng, hư cấu; và mạnh dạng, phóng khoáng cho ngòi bút trôi chảy.
4- Cái Học. Nói vậy, không phải nhà văn là không cần đi học, và Học.
Không thủ đắc được một nền tảng học thuật, triết học, thi ca, cả hội họa, âm nhạc nghệ thuật, người cầm bút, ngoài một ít năng khiếu trời cho, chỉ còn là cạn cợt, nghèo nàn, thiếu hơi. Chung chung là sống thêm những ngày trí não teo cơ.
Được một hạt giống tốt, chôn xuống đất, đương nhiên nó tự nảy mầm. Phải tận tâm xới đất, vào phân, tưới nước, cây mới sum sê dài ngày, bền vững, cho trái ngọt, quả lành. Nhà văn, kẻ luôn bức thoát khỏi vị trị trí cũ, khắc khoải chờ một lột xác, phục dựng.
Ngoài những lời dạy dỗ bao la chi tào của các triết gia, thánh hiền, nhà cầm bút muốn viết /tả cái sự đời cho rõ/tỏ, cho lung linh tận cùng cũng phải biết đến cả những cái nhỏ nhoi, vụn vặt. Chính cái vô tình của thiên nhiên, cái đương nhiên của tự nhiên, cái hành động thuần bản năng phi ý thức, do hằng đời đời đã tự có trong muôn loài, lại là cái “nết” biểu trưng chung cho muôn đời.
Hãy nhìn miệt mài cái cách con chim làm tổ, không đôi tay chúng dùng cái mỏ điệu đàng; xem cách con diều lao vút từ tầng không xuống mặt đất chớp nhoáng “đớp” một con gà con, và, sự tận hiến của gà mẹ bung hai cánh nhỏ bé bảo vệ đàn gà con. Cái an lòng một niềm vui tổ ấm, sự cạnh tranh, chiếm đoạt giữa các loài trong trời đất, và sự tự vệ để sinh tồn. Những hoạt cảnh ấy, ngoài tác động của thị giác, với nhà văn, hãy còn một biến thể, những cảm nghiệm trừu tượng, hằng lung linh lưu dấu trong tâm thức, tâm linh. Nó sẽ biến dạng, là ánh sáng rộng tỏa, khi kể lại sự vụ, trong cái truyện, trên trang sách.
Với người cầm bút, việc đọc sách không là một giải trí, thoát sầu, tìm vui. Đọc/ học/ ghi nhận từ sách vở, từ bầu trời trăng sao, từ mặt đất con thác đổ con kiến tha mồi mùa mưa lũ. Nhất nhất đều cho ta bài học, đều dạy ta, cho ta chất dinh dưỡng, nuôi sống ngòi bút.
Với chữ nghĩa, y chừng là một cái Đạo đối với người cầm bút. Một con đường khó khăn, phải năng tu tâm dưỡng trí; “cố cùng” mới đạt thành. Các Nho sĩ thời xưa, phải tắm rửa sạch sẽ, khăn đóng áo dài, mới ngồi trước án thư, mở cái chữ của thánh hiền.
5- Cái Đi. Cái Đi chính là cái sống. Bước đi càng dặm dài sự hiểu biết càng mở rộng. “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, “Đi ra cho biết đó đây, ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”, người xưa từng dạy. Nhà văn cần từng trải, qua không gian lẫn thời gian. Thời gian, để có đường trường sáng tác. Không gian để bản thân văn chương luôn thay áo mới.
Một người ở mãi trong làng trong nước, đương nhiên bằng lòng với sự thân thiện, hòa mình, thỏa mãn với tụng ca, “Chỉ chốn quê hương là đẹp hơn cả”. Nhưng ai đó “lỡ” đi ra ngoài nước một lần mới thấy mình cần đi đó đây.
Trái đất rộng tênh, biển chữ cổ kim vô bờ, đọc được chừng nào, thì đọc. Có điều kiện, tùy nghi túi tiền, du lịch đến được chỗ nào thì đến. Ít nhiều cũng là cái “có thêm”, là bề dày từng trải.
Người dân ở những nước văn minh tiên tiến, người ta quanh năm làm việc hết mình, dành dụm chút tiền bạc, để tới mùa nghỉ dài ngày, là a-lô, ba-lô lên đường du lịch.
Đi ra ngoài, nhìn ngắm nhiều, giựt mình nhiều món lạ, cảnh đẹp, ông da trắng bà da đen, bác lạc đà, cô chuột túi, ngữ ấy phần nào nó triệt tiêu cái tánh nhỏ nhoi, thủ cựu, ta đây là nhứt.
Phạm Viêm Phương: Xin được cắt ngang câu trả lời của ông. Hôm nay, đa phần bà con cho rằng việc đọc sách để tìm kiến thức là phí phạm thời gian. Đã có ông Gu-Gồ, thầy dạy bách khoa.
Cung Tích Biền: Đúng là như vậy. “Ông” ấy là tay ký lục tận tụy, vô tư và rộng lòng, luôn sẵn lòng ban phát thông tin cho bất cứ ai cần. Nhưng muốn có một kiến thức sâu rộng ta phải cần một đòi hỏi khác, khắt khe hơn. Phải cần nhiều chiều hướng thông tin soi rọi, sâu rộng, ta mới có cái nhìn khách quan và cho ra một kết luận [tương đối] chính xác. Nó không đơn giản như việc tìm công thức để nấu một tô bún bò.
Hãy cho một thí dụ, đòi hỏi sự nỗ lực tìm kiếm và giàu trầm tư. Văn bản một lịch sử nào cũng có “kể lể”, “kể công”. Một của triều đại, của thể chế đương quyền. Và, một kia, là của thực thể đã tiêu vong, trước đó.
Nhà đương quyền luôn chép sử theo những gì mình cho là đáng/nên ghi chép. Tham vọng dương danh của kẻ đương ngôi, là luôn hạ nhục cái thể chế mình đã hạ gục. Thể thái ấy luôn bày rõ một sự đồi bại, thiếu công minh, bỏ đi sự thật, tạo ra sự bịa đặt, hỏa thiêu, an táng những gì là đáng tôn vinh của bên chiến bại. Kết quả, đã lái công-việc-sử-ký sang “Con đường một chiều”.
Bản “tự vinh danh” này của nhà đương quyền, đã đươc công khai dạy cho công chúng, được đưa vào sách giáo khoa học đường, cưỡng chiếm niềm tin của một thời; tất thảy đó, là hàng giả mạo.
Một bản kia, là viết vì sự thật, của máu, trong hàm oan. Bản ấy, có thể đang còn ẩn kín đâu đó, đó mới là Sự-thật-lịch-sử dành cho mai sau.
Nhà văn qua tác phẩm của mình, trong chừng mực khiêm tốn, ít nhiều đóng góp, là một người có trách nhiệm ghi lại, thanh minh cho lịch sử. Cần một cẩn trọng, nghiêm túc, không vì những thông tin son phấn, đánh lừa của những kẻ đã quên đi các công lao của tiền nhân, xem thường danh dự của giống nói.
Tôi xin dài dòng thêm, vì câu hỏi, “Ông đã có hơn nửa thế kỷ cầm bút và vẫn giữ được sức viết khi đã ngoài tuổi tám mươi. Tôi nghĩ rằng điều đó chắc hẳn dựa trên một nỗ lực tìm học và trầm tư không ngừng (ta tạm gác bỏ yếu tố sức khỏe). Ông có thể cho bạn đọc và thế hệ trẻ biết nên làm gì, tìm đọc những lãnh vực gì, rèn luyện gì để giữ bút lực sung mãn như thế không?
6- Sự hàm dưỡng. Con ong làm tổ, con nhện giăng tơ, là ở chỗ ra công nhặt nhạnh, từ từ gom tụ, tuần tự bày biện. Sự hàm dưỡng của một nhà văn là một công năng quan trọng. Không tùy hứng mà phải khổ công miệt mài, mới nên tơ, thành mật.
Tiếp nhận, giữ lại, tô bồi những dưỡng chất cho đường dài sử dụng. Hàm dưỡng tài năng, tri thức, sở học, kinh nghiệm, trên nữa là tâm thức tâm linh. Một cuộc tu tập man mác biển rộng sông dài, luôn phải thường trực, linh động.
7- Ngoại ngữ. Nhà văn cần biết ngoại ngữ là điều cấp thiết. Các nhà văn, học giả tổ tiên của chúng ta, vào thời Gia Định báo [Trương Vĩnh Ký], đến Đông Dương tạp chí [Nguyễn Văn Vĩnh], Nam Phong tạp chí [Phạm Quỳnh] đến Tự Lực văn đoàn [Nhất Linh]... hầu hết các vị đã thông tạo chữ Hán và tiếng Pháp.
Nguyễn Bá Trác [1881-1945] viết thiên ký sự Hạn mạn du ký, nguyên là bằng chữ Hán, về sau chính ông dịch ra tiếng Việt -- đăng trên Nam Phong tạp chí từ số 38 đến số 43 vào năm 1920. Cung Giũ Nguyên [1909 – 2008) viết tiểu thuyết bằng tiếng Pháp. Và, còn rất nhiều trường hợp khác nữa.
Là nhà văn, tùy nghi, nhưng theo tôi, phải thông hiểu tiếng Anh và tiếng Pháp. Nói-nghe-đọc, không giỏi hai cái trước, thì cũng phải thông thạo cái sau, Đọc được.
Anh ngữ, để giao tiếp toàn cầu. Pháp ngữ, vì chúng ta có quan hệ nhiều mặt với người Pháp trong non thế kỷ lệ thuộc; muốn thông hiểu sâu rộng quá khứ qua tư/tài liệu, cần hiểu biết tiếng Pháp để tiện tra cứu. Thêm nữa, nguồn sách trước nay, được xuất bản toàn cầu, đa phần là tiếng Anh, tiếng Pháp.
Học thêm chữ Hán cũng là điều hữu dụng, vì tiền nhân chúng ta, ngoài chữ Nôm, có trên một nghìn năm dùng chữ Hán trong mọi lĩnh vực chính thống phải cần tới Hán tự.
Một lý do nữa, lâu nay, những tác phẩm nguyên ngữ rất nhiều, nhưng được dịch ra “Tiếng nước ta” thì quá ít. Việc dịch lại chậm trễ. Những danh phẩm thế giới, người ta đọc đã thời kỳ quá đát, vài mươi năm sau, ta mới thấy được bản dịch. Nếu có chút ngoại ngữ, đọc trực tiếp, trước khi được dịch, sự tiếp cận càng sớm càng tốt.
8- Cần cù lao động, dành thời gian cho nghề nghiệp. Lẽ thường, nghệ sĩ thì phóng khoáng, chơi nhiều, nhậu nhiều, nhảy đầm, đánh đàn, yêu hoa, si tình, lai rai đánh bạc, giao du đó đây tìm bạn tâm giao, lúc hứng thích mới sáng tác.
Tôi không dám bàn, dám khuyên với các “Nhà” khác. Nghề văn như nghề dệt vải, lại cung cách của thời thủ công như các gái làng quê thuở nọ. Dệt từng sợi, gõ từng chữ gian nan. Có khi khuya lơ, viết xong trang chữ, đẩy cửa bước ra ngoài, trăng về sáng mòn mỏi, một mình.
Phải thầm lặng, cần cù, ngày nối đêm mới có “sản phẩm”. Trong thời gian có hứng thú sáng tác, phải tiết kiệm thời gian, phải kiêng cữ, mọi thứ như chị có bầu, tất thảy là vì đứa con đang mang trong bụng; tất thảy là mong đứa con sắp oe oe chào đời là một sinh vật lành mạnh, tinh khôi, không dị tật.
Cho nên, nhà văn phải chịu cái an phận. Anh mừng cho tôi có một đời viết lách bền bỉ trên sáu mươi năm, tới nay tôi vẫn bàn đèn nghiện ngập cái chữ. Anh ạ, cái đó là cách trả nợ. Một mối nợ già đầu chưa trả hết. Quả là trời hành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét