Hiếu Chân/Người Việt
Hiếu Chân/Người Việt
Cuộc đảo chính quân sự ở Miến Điện rạng sáng ngày 1 Tháng Hai không chỉ xóa sạch thành quả đổi mới chính trị, mở cửa kinh tế suốt 10 năm qua ở đất nước Đông Nam Á mà còn bộc lộ nhiều vấn đề đáng suy ngẫm về công cuộc xây dựng dân chủ từ một xã hội quân phiệt nhiều mâu thuẫn nội tại và nằm kề nước Trung Quốc độc tài.
Dân chủ từ trên xuống
Có thể ghi nhận đặc điểm đầu tiên của chế độ dân chủ Miến Điện (còn có tên là Burma, Myanmar) là tiến trình từ trên xuống: tập đoàn quân sự cầm quyền (junta) chuyển giao quyền điều hành cho chính phủ dân sự sau năm thập niên cai trị bằng chế độ quân phiệt. Cuộc chuyển giao này không hoàn toàn tự nguyện mà xảy ra dưới sức ép của tình trạng cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế và tình trạng bần cùng hóa mọi mặt đời sống xã hội. Không giống như “Mùa Xuân Ả-rập” hoặc các cuộc “Cách mạng màu” ở Đông Âu, trong đó người dân giành quyền lực sau những cuộc đấu tranh đường phố hàng trăm ngàn người tham gia – tiến trình chuyển hóa dân chủ của Miến Điện là “từ trên xuống”: chương trình cải cách được hoạch định và thực thi từ cấp cao nhất của hệ thống cầm quyền.
Nói như thế không phải là phủ nhận công lao đấu tranh của người dân Miến Điện. Cuộc nổi dậy năm 1988 – có tên là “Phong Trào 8888” vì khởi phát ngày 8 Tháng Tám, 1988, trong sinh viên các trường đại học ở Yangon rồi lan rộng thành hàng loạt cuộc biểu tình và bất tuân dân sự khắp cả nước – tuy bị dập tắt nhưng đã dẫn tới sự thành lập Liên Đoàn Dân Tộc Vì Dân Chủ (National League for Democracy, NLD) đối lập, đưa bà Aung San Suu Kyi lên vũ đài chính trị.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1990 đảng NLD giành thắng lợi áp đảo nhưng bị phe quân đội cầm quyền phủ nhận kết quả bầu cử, đảng NLD bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, lãnh tụ Aung San Suu Kyi bị quản thúc tại gia suốt hai thập niên sau đó. Năm 2007, cuộc “Cách mạng áo cà sa” (Saffron Revolution) của các tăng sĩ Phật Giáo Miến Điện cũng bị quân đội đàn áp dã man. Phải đến năm 2011, những sự thay đổi từ bên trên mới thực sự biến Miến Điện thành trường hợp hiếm hoi, tiêu biểu cho một chế độ độc tài tự lột xác từ bên trong một cách hòa bình và đặt ra một kinh nghiệm quý để các nước láng giềng tham khảo.
Do đâu có sự lột xác như vậy? Tình trạng kiệt quệ về kinh tế – do tham nhũng và quản lý sai lầm của giới quân nhân cầm quyền, cộng với tình trạng cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài và áp lực của các biện pháp cấm vận từ phương Tây – có thể là nguyên nhân chủ yếu. Năm thập niên dưới chế độ quân phiệt đã đưa Miến Điện từ một quốc gia thịnh vượng xuống cảnh cơ hàn.
Miến Điện giành được độc lập từ thực dân Anh năm 1948 và bắt đầu công cuộc kiến thiết với nhiều thành quả rực rỡ. Nhưng đến năm 1962, Tướng Ne Win làm cuộc đảo chính quân sự rồi đặt đất nước dưới chế độ quân phiệt. Khi ấy Miến Điện là quốc gia giàu có nhất khu vực, thu nhập bình quân đầu người đạt $670/năm, gấp ba lần Indonesia và gấp đôi Thái Lan. Thế nhưng đến năm 2010, theo số liệu của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), thu nhập đầu người của Miến Điện thấp nhất khu vực Đông Nam Á, kém cả Lào và Cambodia và chỉ bằng 1/10 Thái Lan, theo dữ liệu của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB).
Sự tụt hậu khủng khiếp này là một nỗi ô nhục không chỉ của người dân mà cả các nhà lãnh đạo. Phát triển kinh tế để tiến kịp các nước lân bang là nhu cầu bức thiết. Vì lẽ đó, ngay từ năm 2003, Thống Tướng Than Shwe – nhà lãnh đạo độc tài khét tiếng – đã vạch ra “lộ trình bảy bước tới dân chủ” và chọn Tướng Thein Sein làm người kế vị, chịu trách nhiệm thực thi lộ trình đó. Dù đã xa rời chính trường từ lâu, ông Than Shwe vẫn được coi là “kiến trúc sư” của chế độ dân chủ Miến Điện.
Theo lộ trình, một đại hội quốc gia được triệu tập để thảo ra bản Hiến Pháp mới, tuy còn nặng mùi quân phiệt, nhưng vẫn được trưng cầu dân ý và thông qua năm 2008. Năm 2010, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc Hội được tổ chức theo Hiến Pháp mới; Quốc Hội sau đó đã bầu Tướng Thein Sein làm tổng thống đầu năm 2011 và phê chuẩn một nội các mà hầu hết là các tướng lĩnh khoác áo dân sự.
Theo báo Economist, chế độ dân chủ mà giới lãnh đạo Miến Điện hướng tới là “nền dân chủ có kỷ luật” (disciplined democracy), không trùng khớp với những nguyên tắc dân chủ ở phương Tây; trong đó quân đội vẫn nắm nhiều quyền lực và chi phối mọi mặt đời sống xã hội. Hiến Pháp 2008 quy định quân đội được bổ nhiệm không qua bầu cử 25% số đại biểu Quốc Hội, quân đội nắm các bộ quan trọng nhất như Nội Vụ, Quốc Phòng, Biên Giới. Đáng chú ý là quân đội vẫn nắm yết hầu của nền kinh tế Miến Điện, các tập đoàn kinh doanh thuộc quân đội giữ các vị trí độc quyền, có chân rết khắp nơi, từ kinh doanh khách sạn, hàng không, khai thác gỗ và đá quý cho đến các trang trại nuôi gia cầm. Hiến Pháp 2008 còn quy định mọi sự thay đổi dù nhỏ các điều khoản của Hiến Pháp phải được sự chấp thuận của ít nhất 75% số đại biểu Quốc Hội, điều mà các thế lực đối lập không thể nào có được.
Chỉ sau khi đặt được các cơ sở pháp lý vững chắc như vậy bảo đảm cho việc nắm giữ quyền lực lâu dài, quân đội Miến Điện mới từng bước nới lỏng quyền kiểm soát, trả lại cho dân một số quyền dân chủ rất giới hạn.
Tổng Thống Thein Sein đặt nền móng ban đầu
Thế nhưng, khi đã nắm được quyền lãnh đạo tối cao, Tổng Thống Thein Sein đã mở rộng nền dân chủ ra ngoài ý tưởng ban đầu của những người xướng ra nó. Ngay sau khi lên làm tổng thống, ông Thein Sein đã quyết định xóa án quản thúc tại gia đối với bà Aung San Suu Kyi, mời bà Suu Kyi cùng tham gia quản trị đất nước. Ông cũng đã quyết định trả tự do cho toàn bộ tù nhân chính trị, cho phép thành lập nghiệp đoàn độc lập, xóa bỏ chế độ kiểm duyệt, thực thi tự do ngôn luận, công nhận báo chí tư nhân, tổ chức tuyển cử tự do và công bằng, ban hành luật về đầu tư nước ngoài và cải cách hệ thống tỷ giá… Chính phủ Miến Điện cũng đã đàm phán và ký kết hiệp định đình chiến với phiến quân thuộc các nhóm sắc tộc Kachin, Karen, Shan… đặt cơ sở cho sự hòa hợp dân tộc. Một thời được coi là hình mẫu của chế độ chuyên chế quân phiệt, nhưng chỉ sau vài năm cải cách chính trị, đến năm 2013 Miến Điện đã tốt hơn nhiều nước Châu Á khác về quyền dân sự và chính trị, theo nhận định của báo The Economist.
Tự do chính trị kéo theo sự thay đổi về kinh tế. Gần như mọi biện pháp cấm vận kinh tế mà Hoa Kỳ và phương Tây áp đặt lên Miến Điện mấy thập niên qua đã lần lượt được dỡ bỏ; nhiều khoản nợ công được các chính phủ Châu Âu, Nhật Bản xóa nợ; các định chế tài chính quốc tế như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ngân Hàng Thế Giới (WB) chẳng những hỗ trợ Miến Điện về tài chính mà cả về đào tạo, tư vấn, xây dựng hệ thống pháp lý và hệ thống tổ chức tài chính theo hướng hiện đại.
Với nguồn tài nguyên phong phú về dầu khí, nông sản, gỗ teak, đá quý và nhiều loại khoáng sản quý, với vị trí nằm giữa hai thị trường đông dân nhất thế giới Ấn Độ và Trung Quốc, kinh tế Miến Điện được kỳ vọng sẽ tăng gấp bốn lần, từ $45 tỷ năm 2013 lên $200 tỷ vào năm 2030, theo báo cáo tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới Đông Á lần đầu tiên tổ chức ở Miến Điện Tháng Sáu, 2013.
Người có công đầu trong công cuộc dân chủ hóa Miến Điện là Tổng Thống Thein Sein. Sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở một vùng quê nghèo đến nỗi ngôi trường trung học gần nhất cũng cách nhà cả trăm cây số, mẹ mất sớm, cha vào chùa làm sư, ông Thein Sein chọn binh nghiệp để tiến thân và lên đến cương vị đứng đầu nhà nước. Cuộc sống cơ cực của người dân giúp ông nhận ra rằng chế độ độc tài quân phiệt chỉ có thể đưa đất nước tới bờ vực sụp đổ, rằng tương lai đất nước không phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân của các nhà lãnh đạo mà vào việc xây dựng các thể chế, văn hóa dân chủ. Nhưng để xây dựng thể chế dân chủ, ông Thein Sein chủ trương đi từng bước, chậm rãi mà chắc chắn. “Ngay từ đầu, chúng tôi biết người dân mong muốn một chế độ dân chủ, nhưng chúng tôi không muốn thay đổi đột ngột vì làm như vậy rất nguy hiểm cho xã hội. Chúng tôi thay đổi vì nhân dân muốn như vậy,” ông nói trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc hồi Tháng Mười, 2012. Nhưng rất tiếc, con đường dân chủ còn dài thì đến năm 2015, nhiệm kỳ tổng thống kết thúc, ông Thein Sein từ bỏ danh vọng, vào chùa xuống tóc làm sư sau khi đã “cài cắm” được bà Aung San Suu Kyi vào vị thế lãnh đạo công cuộc dân chủ hóa Miến Điện.
Thực tế khắc nghiệt của dân chủ hóa
Ông Thein Sein rũ bỏ bụi trần khi đất nước Miến Điện còn ngổn ngang trăm mối với nhiều mâu thuẫn khó có thể giải quyết trọn vẹn, trước tiên là mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo giữa người Burma đa số với hàng chục sắc dân thiểu số vùng biên địa, đặc biệt là các sắc tộc thiểu số phía Bắc từ lâu đã tiến hành chiến tranh đòi tự trị với chính quyền trung ương và người Rohingya gốc Ấn ở tỉnh Rakhine giáp Bangladesh. Rồi mâu thuẫn tôn giáo giữa đa số dân theo Phật Giáo với thiểu số Hồi Giáo; mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường tự do mới manh nha với sự kiểm soát của quân đội thông qua mạng lưới chân rết hàng trăm tập đoàn, công ty – của quân đội và của từng tướng lĩnh – độc quyền trong mọi lĩnh vực kinh tế. Những mâu thuẫn này nhiều lúc bùng lên thành bạo lực cướp đi sinh mạng hàng ngàn thường dân mà điển hình là vụ “thanh lọc sắc tộc” đối với người Rohingya theo Hồi Giáo từ năm 2017 khiến hàng trăm ngàn người Rohingya phải bỏ làng mạc đi tị nạn ở Bangladesh, làm dấy lên sự phẫn nộ của cộng đồng thế giới.
Rồi bàn tay bí mật của Trung Quốc, vốn không muốn thấy một nước láng giềng Miến Điện dân chủ, tự do và thịnh vượng nằm ngay ở phía Nam. Trung Quốc có chung đường biên giới với Miến Điện dài 1,300 cây số. Trước năm 2010, Trung Quốc vừa câu kết với tập đoàn quân phiệt cầm quyền Miến Điện để thực hiện nhiều dự án lớn phục vụ cho lợi ích kinh tế của Trung Quốc, vừa bí mật ủng hộ tài chính và vũ khí cho các đội phiến quân của sắc tộc Shan, Kachin… quấy nhiễu ở vùng biên.
Khi Miến Điện bị quốc tế cấm vận thì Trung Quốc gần như là bạn hàng duy nhất có quan hệ thương mại với Miến Điện; họ tiêu thụ gỗ quý, đá quý và các mặt hàng xuất cảng mà quân đội Miến Điện khai thác đồng thời họ bỏ vốn liên doanh với các công ty của quân đội Miến Điện trong khai thác tài nguyên, sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Nhưng việc Miến Điện chuyển sang chế độ dân chủ làm cho Trung Quốc mất đi một nguồn lợi béo bở, thấy rõ sau khi Tổng Thống Thein Sein quyết định đình chỉ dự án xây dựng đập thủy điện khổng lồ Myitsone trên sông Irrawaddy – quyết định đầu tiên và hợp lòng dân của ông Thein Sein. Công trình thủy điện này do một công ty Trung Quốc đầu tư với số vốn lên tới $3.7 tỷ nhằm cung cấp điện cho tỉnh Vân Nam của Trung Quốc nhưng buộc hàng ngàn hộ gia đình Miến Điện phải rời bỏ làng mạc để chuyển tới các khu tái định cư, nhiều di tích văn hóa-lịch sử bị xóa sổ.
Quyền lợi của Trung Quốc phần nào đó thống nhất với quyền lợi của các tướng lĩnh cầm đầu quân đội Miến Điện và trái ngược với tiến trình dân chủ hóa của đất nước. Hai thế lực này không thể ngồi yên để quyền lợi của họ bị tước bỏ.
Aung San Suu Kyi: thần thánh hay tội đồ?
Bà Aung San Suu Kyi lên cầm quyền trong bối cảnh chính trị phức tạp như vậy và thực tế cho thấy bà không phải là một nhà chính trị tài giỏi hay khôn khéo. Là con của Tướng Aung San, người anh hùng giải phóng đất nước Miến Điện, bà học tập ở Đại Học Oxford danh tiếng, đi nhiều nơi trên thế giới, thông thạo nhiều ngôn ngữ, và được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Sau 28 năm ở nước ngoài, bà trở về Miến Điện năm 1988 khi các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ diễn ra rầm rộ; chỉ vài tháng sau, bà trở thành người lãnh đạo “Phong Trào 8888.” Mặc dù bị chế độ quân phiệt cầm tù tại gia suốt từ năm 1989 đến năm 2011, bà vẫn là linh hồn của cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Miến Điện trong cương vị người lãnh đạo đảng chính trị đối lập NLD. Người dân Miến Điện trìu mến gọi bà là “Mẹ” (Daw), coi bà như một vị thánh sống (godlike), chủ yếu vì lòng can đảm, đối đầu với cường quyền mà không hề run sợ của bà.
Bà đắc cử vào Quốc Hội Miến Điện trong cuộc bầu cử tự do năm 2015 nhưng không được cử làm tổng thống vì quy định của hiến pháp không chấp nhận nguyên thủ quốc gia là người có vợ/chồng con cái mang quốc tịch nước ngoài. Miến Điện phải đặt ra chức cố vấn nhà nước (State Advisor) chỉ dành riêng cho bà, thực ra bà là người nắm quyền cao nhất của bộ máy chính phủ, tổng thống cũng phải nghe lệnh của bà. Nhưng trong thực tế phức tạp của Miến Điện, chính phủ dân sự do người dân bầu lên cũng chỉ là “bù nhìn,” quyền lực thật sự vẫn nằm trong tay các tướng lĩnh quân đội.
Bà Suu Kyi quan niệm rằng, để công cuộc cải cách không bị cản trở, cần phải làm cho giới quân sự cầm quyền cảm thấy an toàn, không lo bị trả thù, không truy cứu tội trạng, không tịch thu tài sản. Lâu dần, quan điểm hòa hoãn với quân đội đã biến thành sự tôn sùng quyền lực của các tướng lĩnh, dung dưỡng các hành vi lạm quyền, thậm chí biện hộ cho các tội ác chống lại dân chủ, nhân quyền của họ. “Tôi không làm bất cứ điều gì chỉ để được ủng hộ. Các chính trị gia đôi khi phải làm những việc mà người dân không thích,” bà nói với những người dân phản đối khi bà dẫn đầu đoàn quan chức chính phủ đến thăm khu mỏ đồng Letpadaung gần thành phố Monywa ở miền Trung Miến Điện năm 2013, nơi hàng ngàn nông dân đang biểu tình chống lại việc quân đội thu hồi ruộng đất của họ để mở rộng dự án khu mỏ liên doanh với một tập đoàn Trung Quốc.
Có thể bà suy nghĩ hãy nhẫn nại chịu đựng sự lạm quyền của quân đội để nuôi dưỡng thế lực, miễn là duy trì được chính quyền dân sự và một số quyền tự do hạn chế của người dân, đến ngày đủ lông đủ cánh sẽ giành lại quyền lực và thực thi một chế độ dân chủ toàn diện mà bà đã được đào tạo ở phương Tây. Dù sao, thái độ dung dưỡng, thậm chí đồng lõa của bà đối với hành động “diệt chủng” của quân đội Miến Điện đối với người Rohingya ở Rakhine, sự im lặng của bà trước vụ hàng trăm nhà báo, nghệ sĩ bị cầm tù chỉ vì cất lên tiếng nói đòi dân chủ… đã làm hoen ố danh tiếng của bà, bị các nước phương Tây lên án nặng nề, thậm chí bị đòi ra điều trần trước Tòa Công Lý Quốc Tế vào cuối năm ngoái.
Với nhiều người ở ngoài Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi là một thần tượng đã sụp đổ, một thiên thần biến thành ác quỷ, một chính trị gia bị quyền lực làm cho tha hóa đến mức không ngờ. Nhiều tổ chức nhân quyền đòi thu hồi những giải thưởng đã trao cho bà, thậm chí giải Nobel Hòa Bình mà bà nhận được năm 1991 cũng có đề nghị thu lại.
Có điều khó giải thích là ở trong nước Miến Điện, bà Suu Kyi vẫn nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều tầng lớp dân chúng, nhất là người Burma đa số, theo Phật Giáo và các cộng đồng doanh nghiệp tư nhân mới nở rộ trong thời kỳ mở cửa kinh tế. Trong cuộc tổng tuyển cử ngày 8 Tháng Mười Một, 2020, đảng NLD của bà giành được 396 trong số 498 ghế nghị sĩ Quốc Hội được bầu, nhiều hơn số ghế tối thiểu 322 ghế mà đảng này cần có để đủ đa số thành lập chính phủ và cử ra tổng thống mới. Đảng Liên Minh Đoàn Kết và Phát Triển (Union Solidarity and Development Party, USDP) – cánh chính trị của quân đội Miến Điện chỉ giành được 33 ghế.
Cuộc đảo chính đã nhìn thấy trước
Dự đoán trước thắng lợi áp đảo của đảng NLD, ngay từ Tháng Ba, 2020, bà Aung San Suu Kyi đã thúc đẩy cuộc vận động sửa đổi Hiến Pháp theo hướng thu hẹp quyền của giới tướng lĩnh quân đội; cụ thể là giảm số đại biểu Quốc Hội được quân đội cử ra không qua bầu phiếu, Quốc Hội được giao quyền bổ nhiệm các bộ trưởng trong chính phủ theo đề nghị của tổng thống… Nếu Hiến Pháp được sửa đổi theo hướng đó, chính phủ dân sự Miến Điện sẽ có thực quyền nhiều hơn và công cuộc cải cách, dân chủ hóa đất nước có cơ may được đẩy mạnh. Đề nghị của bà được đa số đại biểu Quốc Hội ủng hộ nhưng bị phía quân đội dùng quyền phủ quyết bác bỏ.
Các tướng lĩnh quân đội Miến Điện vẫn muốn cầm quyền một cách chính danh thông qua bầu cử hợp pháp. Nhưng điều họ không ngờ là đảng chính trị của quân đội – đảng USDP, đạt kết quả quá thảm hại trong cuộc bầu cử ngày 8 Tháng Mười Một nên quân đội phải có hướng đi khác nếu không muốn quyền lực và quyền lợi của họ bị thu hẹp. Những ngày sau bầu cử, phát ngôn viên của quân đội Miến đã nhiều lần lấp lửng rằng quân đội sẽ hành động (take action) nhưng không nói đó là hành động gì.
Ngay sau khi kết quả bầu cử được công bố ngày 15 Tháng Mười Một, 2020, đảng USDP và phe quân đội đã lên tiếng cáo buộc bầu cử gian lận và không thừa nhận chiến thắng của đảng cầm quyền NLD. Phía quân đội đề nghị tổ chức bầu cử lại, dưới sự giám sát của quân đội; họ cũng đã nộp hơn 200 đơn kiện lên các cơ quan bầu cử địa phương, kiện lên cả Tối Cao Pháp Viện nhưng không đảo ngược được kết quả bầu cử.
Theo lịch trình, Quốc Hội Miến Điện họp phiên đầu tiên vào sáng Thứ Hai, 1 Tháng Hai, để phê chuẩn kết quả bầu cử ngày 8 Tháng Mười Một, 2020, và lập chính phủ mới; sau đó thì không còn tranh tụng gì nữa về bầu cử. Không để điều đó xảy ra, quân đội Miến Điện tổ chức đảo chính lúc rạng sáng ngày 1 Tháng Hai, chỉ vài giờ trước khi Quốc Hội khai mạc kỳ họp, bắt giữ bà Aung San Suu Kyi, Tổng Thống Win Myint và các nhà lãnh đạo cấp cao khác của đảng NLD. Các nghị sĩ mới được bầu, đang tụ tập về thủ đô Naypyitaw cũng bị khống chế và giam lỏng tại các khách sạn mà họ cư ngụ. Tình trạng khẩn cấp được ban hành và sẽ kéo dài một năm, theo thông báo của quân đội.
Như vậy, tiến trình dân chủ hóa của Miến Điện, sau khi đi được một thập niên, đã đột ngột bị chặn đứng và đảo ngược. Đất nước 54 triệu dân lại rơi vào chế độ quân quản và chưa biết tương lai sẽ như thế nào. Nếu Hoa Kỳ và phương Tây áp đặt trở lại các biện pháp trừng phạt, cấm vận kinh tế, cô lập chính trị như các tuyên bố đầy đe dọa của Tổng Thống Joe Biden và các nhà lãnh đạo phương Tây khác, Miến Điện sẽ lại rơi trở lại tình trạng đói nghèo và chế độ chuyên chế. Và sẽ lún sâu hơn vào vòng kiềm tỏa của Trung Quốc.
***
Con đường dân chủ hóa ngắn ngủi của Miến Điện cho thấy, xây dựng dân chủ từ một quốc gia độc tài hoặc quân phiệt là chuyện thiên nan vạn nan, nhất là khi quốc gia đó chứa trong lòng nhiều mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, vùng miền và có bàn tay ngoại bang câu kết với guồng máy độc tài, bóp chết mọi mầm mống phản kháng. Miến Điện đã vậy, mà nhìn về Việt Nam cũng vậy.
Chỉ hy vọng là người dân Miến Điện vốn có truyền thống đấu tranh chống bạo quyền, sau một thập niên hít thở không khí có phần tự do, sẽ không cam chịu quay lại với cuộc sống tăm tối mà họ đã từng trải qua nhiều năm về trước.
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/mien-dien-giua-duong-dut-ganh/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét