Lý Thái Hùng
Ảnh: Dan Bejar/ Foreign Affairs
Trung Quốc hiện đang ở giữa Thời Đại Vàng Son của riêng mình. Các doanh nghiệp tư nhân đang trở nên giàu có đáng kinh ngạc nhờ được tiếp cận đặc biệt với các đặc quyền của nhà nước, cũng như sự cấu kết thủ lợi của quan chức nhà nước các cấp. Nhận thức được sự nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản thân hữu, Tập Cận Bình đang cố thực hiện một “kỷ nguyên tiến bộ” của chính Trung Quốc — kỷ nguyên ít tham nhũng hơn và bình đẳng hơn — thông qua trấn áp bạo lực.
Tuy nhiên, cách làm của họ Tập không thực sự cải cách mà là đang triệt tiêu nguồn năng lượng từ dưới lên – lực lượng nắm giữ chìa khóa để giải quyết các vấn đề nan giải hiện nay của Trung Quốc — và khi làm như vậy, họ Tập có thể sẽ khiến cho tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn.
Thông thường, các quốc gia tham nhũng đều nghèo và giữ nguyên trạng. Nghiên cứu cho thấy có sự quan hệ chặt chẽ giữa tham nhũng và nghèo đói. Nhưng Trung Quốc đã cố gắng duy trì bốn thập kỷ tăng trưởng kinh tế bất chấp mức độ tham nhũng mà ngay cả ông Tập đã mô tả là “nghiêm trọng” và “gây sốc.” Tại sao Trung Quốc đã đi ngược được xu hướng?
Câu trả lời nằm ở loại hình tham nhũng đang thịnh hành ở Trung Quốc. Theo Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế về chỉ số nhận thức về tham nhũng từ 0 đến 100 thì vào năm 2020, chỉ số này ở Trung Quốc là 42 điểm, vượt qua Cuba, Namibia và Nam Phi. Nhưng cách tính này không phù hợp mà nhiều khi còn sai lầm đối với các hiểu biết về tình hình tham nhũng tại Trung Quốc. Có ba loại hình tham nhũng: 1/ Trấn lột vặt chẳng hạn như cảnh sát bắt và làm tiền đối với những người đi đường; 2/ Trộm cắp lớn như cán bộ bòn rút tiền của công rồi chuyển ra nước ngoài; 3/ Hối lộ nhằm bôi trơn bộ máy hành chánh quan liêu. Tham nhũng ở Trung Quốc theo một kiểu khác, khó nắm bắt hơn: Tiếp cận tiền (access money). Trong loại tham nhũng này, các nhà tư bản đưa phần thưởng cổ phần cao cho các quan chức quyền lực không chỉ để đổi lấy sự ưu đãi, mà còn để được tiếp cận các đặc quyền sinh lợi bao gồm tín dụng giá rẻ, cấp đất, quyền độc quyền, hợp đồng mua sắm, giảm thuế, và những thứ tương tự.
Trong bốn thập kỷ qua, tham nhũng ở Trung Quốc đã trải qua một quá trình phát triển chuyển từ hành vi côn đồ và trộm cắp tiến tới tiếp cận tiền (access money). Do nhu cầu trục lợi để làm giàu, các nhà tư bản đã tìm cách đút lót tiền cho các cán bộ đảng và nhà nước để dành lấy những dự án, các đặc quyền, đặc lợi. Hình thức tham nhũng này đang chiếm ưu thế hiện nay và đã kích thích thương mại, xây dựng và đầu tư, tất cả đều đóng góp vào tăng trưởng GDP. Nhưng nó cũng làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng và gây ra những rủi ro cho cả hệ thống. Ví dụ, các khoản vay ngân hàng chuyển sang các công ty có liên hệ chính trị một cách không cân xứng, buộc các doanh nhân thiếu tiền phải vay từ các ngân hàng bóng tối với lãi suất cao ngất ngưởng. Các công ty có liên kết, tràn ngập tín dụng dư thừa, sau đó có thể đủ khả năng chi tiêu một cách vô trách nhiệm và đầu cơ vào bất động sản. Hơn nữa, các cán bộ nhà nước được hưởng lợi cá nhân từ các khoản đầu tư mà họ được chia, bị thúc đẩy đi vay và xây dựng một cách sốt sắng, bất kể hiệu quả của các dự án có bền vững hay không. Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc không chỉ là một nền kinh tế tăng trưởng cao, mà còn là một nền kinh tế có rủi ro cao và mất cân bằng.
Sự phát triển mạnh mẽ của tham nhũng và chủ nghĩa tư bản này bắt đầu từ thời Đặng Tiểu Bình, người đã lèo lái Trung Quốc theo một hướng mới sau ba thập kỷ thảm họa dưới thời Mao. Với chủ nghĩa thực dụng, họ Đặng nhận ra rằng tự do hóa kinh tế và chính trị đồng thời sẽ gây ra bất ổn cho Trung Quốc. Đối với một quốc gia đang bị lung lay bởi sự hỗn loạn, theo họ Đặng thì “sự ổn định và thống nhất là điều quan trọng hàng đầu.” Vì vậy, họ Đặng đã chọn con đường tự do hóa kinh tế từng phần. Thay vì lao thẳng vào chủ nghĩa tư bản, ông đã đưa ra các cải cách thị trường bên lề của nền kinh tế kế hoạch và giao quyền kiểm soát cho các chính quyền địa phương. Làm như vậy, Đặng Tiểu Bình đã đặt ra các nguyên tắc cơ bản cho việc chia sẻ lợi nhuận trong bộ máy hành chính: Các bộ máy sẽ được hưởng lợi cá nhân từ chủ nghĩa tư bản miễn là họ trung thành với đảng. Không có gì ngạc nhiên khi quan chức các cấp đều nhiệt tình ủng hộ vì qua cải cách, nhiều quan chức đã trở thành doanh nhân đại diện – điều hành các doanh nghiệp tập thể, tuyển dụng các nhà đầu tư thông qua mạng lưới cá nhân và điều hành doanh nghiệp.
Khi thị trường bắt đầu mở cửa vào năm 1980, tham nhũng phát triển mạnh mẽ. Nó xuất hiện dưới những hình thức đặc biệt đối với một quốc gia còn lạc hậu với nền kinh tế hỗn hợp và một chính phủ ít có khả năng giám sát hàng triệu quan chức. Ví dụ, chính quyền địa phương nắm giữ cái được gọi là “kho bạc nhỏ,” các quỹ chuyển nhượng chứa đầy các khoản phí, tiền phạt và tiền trái phép được trích từ người dân và doanh nghiệp. Khi biến cố Thiên An Môn xảy ra năm 1989 đã giáng một đòn khá nặng vào phong trào cải cách. Lúc đó Trung Quốc có thể dễ dàng quay trở lại thời kỳ Mao; nhưng họ Đặng sau chuyến “công du phía Nam” vào năm 1992, tiếp tục chính sách mở cửa theo triết lý “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc tính Trung Quốc.” Qua chủ trương này, Bắc Kinh đã loại bỏ các yếu tố chính của kế hoạch hóa tập trung (ví dụ, kiểm soát giá cả và hạn ngạch sản xuất) và giảm mạnh sở hữu nhà nước trong nền kinh tế. Từ năm 1998 đến năm 2004, khoảng 60% công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước đã bị sa thải. Đồng thời, chính quyền trung ương theo đuổi những cải cách mạnh mẽ về ngân hàng, hành chính công, tài chính công và quy định. Những nỗ lực này đã đặt nền tảng cho một giai đoạn tăng trưởng nhanh – nhưng không có tự do hóa chính trị.
Chu Dung Cơ, Thủ Tướng Trung Quốc từ năm 1998 đến năm 2003 là người kiến trúc sư đảm trách công cuộc cải cách vào lúc này. Nổi tiếng với những bài phát biểu nảy lửa, Chu Dung Cơ đã mắng các quan chức địa phương là tham lam, kém cỏi nên triệt để thực hiện một loạt cải cách hành chính. Bắc Kinh đã cho hợp nhất các tài khoản ngân hàng công để loại bỏ những quỹ chuyển nhượng bất hợp pháp và theo dõi chặt chẽ hơn các giao dịch tài chính. Các cuộc cải cách đã có kết quả. Bắt đầu từ năm 2000, số vụ án tham nhũng liên quan đến tham ô và lạm dụng công quỹ giảm dần. Các phương tiện truyền thông đề cập đến “lệ phí tùy tiện” và “tống tiền quan liêu,” một chỉ số cho thấy mối quan tâm của công chúng về những vấn đề này đã giảm đáng kể. Do đó, không có gì ngạc nhiên là năm 2011, khi Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế mở cuộc thăm dò về tình hình tham nhũng thì chỉ có 9% người dân Trung Quốc nhận là có trả hối lộ để tiếp cận các dịch vụ công, trong khi so với 54% người Ấn Độ và 84% người Campuchia. Ở Trung Quốc, ít nhất là ở các khu vực ven biển phát triển hơn nên các hình thức tham nhũng cản trở tăng trưởng ở khu vực này được kiểm soát.
Tuy nhiên sau năm 2010 thì các vụ hối lộ qua hình thức “tiếp cận tiền” tăng vọt, liên quan đến số tiền ngày càng lớn và toàn là những quan chức cao cấp. Báo chí đăng những câu chuyện trên trang nhất về các vụ bê bối tham nhũng, với đầy rẫy những chi tiết tồi tệ về sự suy đồi và tham lam. Một cựu bộ trưởng đường sắt bị buộc tội nhận hối lộ 140 triệu USD, chưa kể hơn 350 căn hộ mà ông ta được tặng. Người đứng đầu một công ty cho vay thuộc sở hữu nhà nước bị cáo buộc có hậu cung với hơn 100 nhân tình và bị bắt với ba tấn tiền mặt được giấu trong nhà. Một cảnh sát trưởng ở Trùng Khánh đã tích lũy một bộ sưu tập bảo tàng tư nhân bao gồm các tác phẩm nghệ thuật quý giá và những quả trứng khủng long hóa thạch.
Tại sao những vụ hối lộ bùng nổ? Bởi vì những cải cách mà Trung Quốc thực hiện không làm giảm quyền lực của nhà nước đối với nền kinh tế nhiều như thay đổi nó. Vào những năm 1980, vai trò chủ yếu của các quan chức nhà nước là lập kế hoạch và chỉ huy, thì nay trong nền kinh tế tư bản toàn cầu hóa của những năm 1990, họ có thêm các chức năng mới – thu hút các dự án đầu tư có tỷ trọng cao, vay và cho vay vốn, cho thuê đất, phá dỡ và xây dựng lại ở một tốc độ điên cuồng. Tất cả những hoạt động này đã mang lại cho các quan chức những nguồn quyền lực mới mà trước đây không thể tưởng tượng được trong một hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Sự thay đổi có thể bắt nguồn từ một vấn đề dường như ít người biết đến: Sự mất cân bằng tài khóa giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Năm 1994, như một phần trong nỗ lực hiện đại hóa, Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ đã tập trung hóa thuế doanh thu, quy định phần gửi về trung ương luôn luôn cao và giảm đáng kể phần do các địa phương giữ lại. Vì thế, các chính quyền địa phương bị hạn chế về tài chính ngay cả khi họ phải đối mặt với áp lực liên tục thúc đẩy tăng trưởng và cung cấp các dịch vụ công. Vì vậy, một nguồn thu nhập thay thế đã được tìm thấy: Đất đai. Tất cả đất đai ở Trung Quốc đều thuộc sở hữu nhà nước và do đó không thể bán được, nhưng Bắc Kinh cho phép chính quyền địa phương được quyền cho các công ty thuê để tăng doanh thu.
Từ thời điểm đó trở đi, các quan chức địa phương đã chuyển từ công nghiệp hóa sang hướng đô thị hóa. Tức là thay vì dựa vào sản xuất làm động lực tăng trưởng chính, các chính quyền địa phương đã chuyển hướng sang việc cho các nhà bất động sản thuê đất nông nghiệp để làm khu dân cư và thương mại. Trong hai thập kỷ sau năm 1999, doanh thu từ việc cho thuê quyền sử dụng đất đã tăng hơn 120 lần. Các chủ đầu tư đã thu lợi rất lớn từ sự sắp xếp này, thu về giá thuê cắt cổ sau khi trả tiền thuê đất nông nghiệp với giá hời và biến nó thành những dự án bất động sản phù phiếm. Qua chủ trương này, đương nhiên các quan chức địa phương cũng được “lại quả” bằng những khoản tiền rất lớn nhằm hỗ trợ bạn bè, người thân của mình trong việc chiếm giữ những lô đất quý giá. Họ đã giúp các nhà phát triển tổ chức đấu giá để mua các lô đất với giá rẻ, và họ triển khai sức mạnh của nhà nước để đẩy nhanh quá trình đô thị hóa một cách giả tạo. Các cơ quan địa phương đã dồn nông dân vào các căn hộ ngoại ô để giải phóng đất đai ở nông thôn, và họ đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng đô thị, chẳng hạn như lưới điện, tiện ích công cộng, công viên và giao thông, để tăng giá trị của những phát triển mới.
Tất cả cơ sở hạ tầng mới này không chỉ được tài trợ thông qua việc bán quyền sử dụng đất mà còn thông qua các khoản vay. Luật cấm các chính quyền địa phương thực hiện thâm hụt ngân sách, nhưng các quan chức đã vượt qua quy định đó bằng cách thành lập các công ty con được gọi là “phương tiện tài trợ của chính phủ.” Các thực thể này đã vay tiền để huy động tiền, số tiền mà các quan chức sau đó sử dụng để tài trợ cho các dự án xây dựng và cơ sở hạ tầng của riêng họ. Chính nguồn tín dụng kép này – cho thuê đất và vay tiền – đã tài trợ cho sự bùng nổ cơ sở hạ tầng khổng lồ của Trung Quốc. Từ giữa năm 2007 đến năm 2017, Trung Quốc tăng hơn gấp đôi chiều dài đường cao tốc, từ 34.000 dặm đến 81.000 dặm- “đủ để đi vòng quanh thế giới hơn ba lần” như sự tự hào của một trang web của chính phủ. Việc xây dựng tàu điện ngầm cũng điên cuồng như vậy. Trung Quốc hiện tự hào có 8 trong số 12 hệ thống tàu điện ngầm dài nhất thế giới.
Mặc dù nó đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa của Trung Quốc, nhưng sự bùng nổ cơ sở hạ tầng đã tạo ra những rủi ro mới. Chính quyền địa phương và các phương tiện tài chính của họ đã tích lũy các khoản nợ ngày càng lớn. Ngay cả các cơ quan quản lý trung ương cũng không biết quy mô của các khoản nợ này cho đến năm 2011, khi họ tiến hành cuộc kiểm toán đầu tiên, kết quả cho thấy chính quyền địa phương đã vay khoảng 1,7 ngàn tỷ USD. Bất chấp các sắc lệnh liên tục từ Bắc Kinh chống lại việc vay nợ, các khoản nợ địa phương vẫn tiếp tục tăng, đạt 4 ngàn tỷ USD vào năm 2020, gần tương đương với tổng thu nhập mà các chính quyền địa phương kiếm được trong năm đó. Đây là bong bóng mà sự đe dọa bùng nổ đang rình rập từng ngày.
Do quyền lực của các quan chức đối với đất đai, sự thông đồng giữa các doanh nghiệp và nhà nước đã dẫn đến việc đầu tư quá mức vào một lĩnh vực cụ thể — bất động sản, mang lại lợi nhuận chưa từng có cho những người liên quan đến chính trị. Kết quả là, các doanh nghiệp Trung Quốc phải đối mặt với những động lực tiêu cực để chuyển nỗ lực của họ ra khỏi các hoạt động sản xuất để hướng tới đầu cơ. Ví dụ, một số công ty đường sắt quốc doanh và các nhà thầu quốc phòng hiện nhận thấy các hoạt động đầu tư bất động sản của họ có lợi hơn hoạt động kinh doanh cốt lõi của họ. Trong thế giới kinh doanh, các nhà tư bản có liên hệ chính trị có thể dễ dàng bảo đảm các hợp đồng chính phủ, các khoản vay giá rẻ và đất đai chiết khấu, mang lại cho họ lợi thế to lớn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong xã hội nói chung, giới siêu giàu chọn những căn hộ sang trọng làm tài sản đầu tư, trong khi nhà ở đô thị vẫn nằm ngoài tầm với của nhiều người Trung Quốc bình thường. Kết quả là một tình trạng tồi tệ trong đó thiểu số người Trung Quốc sở hữu nhà thường không sống ở đó và phần lớn những người cần nhà không thể mua được.
Bây giờ rõ ràng là Trung Quốc đầy rẫy tham nhũng, bất bình đẳng, suy đồi đạo đức và rủi ro tài chính. Kể từ khi các cải cách của Đặng bắt đầu, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã thành công trong việc đưa khoảng 850 triệu người thoát khỏi đói nghèo nhờ tăng trưởng kinh tế, nhưng một thiểu số nhỏ đã được hưởng lợi một cách không cân xứng, đặc biệt là những người đủ may mắn để kiểm soát tài sản. Năm 2012, hệ số Gini của Trung Quốc (thước đo bất bình đẳng thu nhập, với số 0 đại diện cho bình đẳng hoàn hảo và 1 đại diện cho bất bình đẳng hoàn hảo) đạt 0,55, vượt quá con số 0,45 của Hoa Kỳ. Đây là một sự khác biệt đặc biệt chói tai đối với một quốc gia mang danh nghĩa là cộng sản.
Cho nên, không có gì ngạc nhiên khi họ Tập xác định di sản của mình bằng cách tiến hành hai cuộc chiến then chốt: Chống tham nhũng và nghèo đói. Trong bài phát biểu đầu tiên của mình trước Bộ Chính Trị, họ Tập tuyên bố: “Tham nhũng sẽ hủy diệt đảng và nhà nước.” Từ đó, họ Tập đã phát động chiến dịch chống tham nhũng dài nhất và rộng nhất trong lịch sử của đảng. Tính đến năm 2018, có hơn 1,5 triệu quan chức đã bị kỷ luật. Không giống như các chiến dịch chống tham nhũng trước đây, chiến dịch này không chỉ thanh trừng các quan chức cấp thấp mà còn cả những quan chức cấp cao – “đả hổ diệt ruồi” – theo cách nói của ông Tập.
Cuộc đàn áp của họ Tập chỉ là một cái cớ để thanh trừng nội bộ hay là để giảm thiểu tham nhũng? Câu trả lời là cả hai. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu ông Tập sử dụng chiến dịch để loại bỏ tận gốc những kẻ đe dọa cá nhân, bao gồm cả các quan chức bị cho là có liên quan đến âm mưu lật đổ sự cai trị của ông. Tuy nhiên, Tập Cận Bình cũng muốn đặt ra mục tiêu tăng cường đạo đức cán bộ – ví dụ, ban hành một danh sách 8 quy định cấm “thói quen làm việc xa hoa và không mong muốn,” chẳng hạn như uống rượu khi làm việc.
Tuy nhiên, nhận thức của người dân Trung Quốc còn trái ngược nhau. Trong khi nhiều người bị ấn tượng bởi cuộc đàn áp mạnh mẽ, những người khác bị vỡ mộng bởi những chi tiết kỳ quái về lòng tham của cán bộ qua các cuộc điều tra tham nhũng đã tiết lộ. Còn quá sớm để nói liệu chiến dịch của ông Tập có làm giảm đáng kể mức độ hối lộ hay không; nhưng có hai điều rõ ràng. Một là chiến dịch của họ Tập đã khiến các quan chức phải cảnh giác cao độ. Hai là liệu những quan chức bị kỷ luật có còn sống sót hay không. Nói cách khác, chiến dịch của họ Tập tuy thành công trong việc đánh vào nỗi sợ hãi của các quan chức tham nhũng, nhưng nó không loại bỏ được gốc rễ tạo ra tham nhũng – cụ thể là quyền lực to lớn của đảng vẫn đè nặng lên nền kinh tế và hệ thống bao che trong bộ máy hành chính.
Ngoài việc bắt giữ một số lượng lớn các quan chức tham nhũng, họ Tập vì muốn củng cố quyền lực đã buộc các quan chức cán bộ phải thể hiện lòng trung thành đối với mình. Những biện pháp này đã dẫn đến sự bất lực và tê liệt của bộ máy hành chính – “quản trị lười biếng,” như người Trung Quốc thường nói – với các quan chức lo lắng chọn không làm gì để tránh bị đổ lỗi, thay vì đưa ra các sáng kiến có thể gây tranh cãi. Sự khăng khăng chủ quan của họ Tập cũng đã dập tắt những phản hồi trung thực từ trong bộ máy hành chính. Ví dụ, lúc đầu Bắc Kinh đã do dự và trì hoãn các phản ứng cần có đối với đại dịch Covid-19; nhưng vì hệ thống hành chánh quan liêu và e ngại tin xấu, nên một số địa phương không dám báo cáo thật.
Tóm lại, trong nỗ lực chấm dứt chủ nghĩa tư bản thân hữu để ngăn chặn tham nhũng, Tập Cận Bình đang hồi sinh hệ thống chỉ huy, chính cách lãnh đạo này đã thất bại thảm hại dưới thời Mao. Nhưng sau khi kiểm soát thành công đợt bùng phát Covid-19, họ Tập lại càng tỏ ra tự tin vào sự quyết đoán của mình, với các mệnh lệnh từ trên xuống dưới là cách duy nhất để tiến tới. Nhưng bằng cách từ chối cách tiếp cận từ dưới lên, họ Tập đang kìm hãm khả năng thích ứng và tinh thần kinh doanh của Trung Quốc — chính những phẩm chất này đã từng giúp nước này vượt qua rất nhiều trở ngại trong nhiều năm. Một quan chức Trung Quốc đã nói với tác giả: “Nó giống như đi xe đạp vậy – Bạn càng nắm chặt tay cầm, càng khó giữ thăng bằng.”
Những tên cướp ở Bắc Kinh (The Robber Barons of Beijing) – tác giả Yuen Yuen Ang – Phó Giáo Sư Khoa Chính Trị tại Đại Học Michigan và là tác giả cuốn “Thời đại vàng son của Trung Quốc: Nghịch lý của sự bùng nổ kinh tế và tham nhũng lớn” (China’s Gilded Age: The Paradox of Economic Boom and Vast Corruption.)
https://viettan.org/trung-quoc-co-the-tiep-tuc-da-troi-day-hay-khong/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét