Time - Tác giả: Nguyễn Thanh Việt
III
Người Á đông nên ở Á châu, đó là nền tảng của sự kỳ thị bài-Á, không cần biết chúng ta đã sống ở đây bao nhiêu thế hệ hay chúng ta đã làm gì để chứng tỏ mình thuộc về xứ sở này dù không sinh ra tại đây. Đổ lỗi cho dân Á đông ở Á châu, hay ở những quốc gia không thuộc Á châu, vẫn là cách kỳ thị hiệu nghiệm nhất xưa nay; ở Mỹ nó bắt đầu từ thế kỷ 19.
Vào thời đó nước Mỹ cho phép hàng ngàn người Tàu nhập cư để giúp xây đường hoả xa xuyên lục địa. Một khi không cần đến họ nữa, các chính trị gia, nhà báo và doanh gia Mỹ dùng chiêu bài chủng tộc để biến hình ảnh họ thành xấu xa hòng xoa dịu khối công nhân da trắng đang cảm thấy việc làm của mình bị đe doạ. Hậu quả là nhiều người Tàu đã bị đám đông da trắng hành hình [lynch], vô số người Tàu phải bỏ trốn, nhiều khu phố Tàu bị đốt phá.
Đỉnh điểm của sự thù ghét này là Anti-Chinese Act năm 1882, đạo luật kỳ thị chủng tộc đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ; nó biến người Tàu nhập cư thành những kẻ di dân lậu đầu tiên của đất nước này. Bộ Công dân và Di trú được thành lập để kiểm soát di dân từ Trung Hoa và để truy lùng “paper sons” — những người làm giấy tờ giả để nhận mình là con cái của người nhập cư hợp pháp.
Nhà nghiên cứu khoa học chính trị Janelle Wong cho biết, “mặc dù nhiều di dân từ Âu châu cũng bị thù ghét, nhưng chưa bao giờ họ bị kềm kẹp bởi những thủ tục pháp lý về di trú và quyền công dân dựa trên chủng tộc như người Mỹ gốc Á phải hứng chịu.”
Lịch sử nước Mỹ được đánh dấu bởi chu kỳ các đại doanh nghiệp cần lao động rẻ tiền từ Á châu, làm cho tầng lớp lao động da trắng cảm thấy bị đe doạ. Nỗi sợ ấy còn được khơi động bởi các nhà chính trị và cơ quan truyền thông chuyên dùng sắc tộc làm mồi, dẫn đến những đại hoạ như đạo luật Anti-Chinese Act hay việc nhốt người Mỹ gốc Nhật vào các trại tập trung năm 1942. Người viết tấm bảng mà tôi nhìn thấy hồi nhỏ, đổ lỗi cho người Việt làm hại doanh nghiệp ở Mỹ, thật ra họ cũng chỉ thêm một dòng vào câu chuyện “hiểm hoạ da vàng” nằm sẵn trong những đầu óc đầy âu lo và sợ hãi của dân Mỹ.
Sự thật là vào những thập niên 1970 và 1980, downtown San Jose là một khu hoang phế, không ai muốn mở thương nghiệp gì ở đó trừ người Việt tị nạn. Còn ngày nay thì người Mỹ đang cần đến Trung Quốc và những nước Á châu là nguồn cung cấp đủ loại hàng hoá cho dân chúng có cơ hội sống Giấc Mơ Mỹ, xong họ quay lại đổ thừa nước Mỹ bị mất việc, nền kinh tế Mỹ bị tổn thương là do cạnh tranh từ Trung Quốc.
Đổ lỗi cho nước ngoài hay cho một nhóm dân thiểu số, thậm chí cho những chính trị gia đã thương lượng các thoả thuận mậu dịch, vẫn dễ hơn là chỉ đích danh quyền lực thực sự: các công ty và những người làm kinh tế ở cấp cao đã dịch chuyển công ăn việc làm để kiếm lợi nhuận tối đa, không màng gì đến người lao động ở Mỹ phải nhận lãnh hậu quả. Chấp nhận sự thật này là điều vô cùng khó nuốt cho đại đa số công chúng Mỹ, chĩa mũi dùi vào dân Á châu đơn giản hơn nhiều.
Đối mặt làn sóng công luận chỉ trích người gốc Á không “American” đủ, Andrew Yang, từng là ứng cử viên tổng thống, đề nghị giải pháp: “Chúng ta, người Mỹ gốc Á, cần thực hiện và thể hiện bản chất ‘American’ của mình bằng mọi hình thức … Chúng ta phải cho mọi người thấy rằng mình là công dân Mỹ và sẵn sàng phục vụ nhu cầu của đất nước.” [1] Nhiều người Mỹ gốc Á đã cảm thấy bị xúc phạm bởi câu nói trên, cho rằng nó chẳng khác nào lời xin lỗi về sự có mặt của người gốc Á ở Mỹ.
Những người chỉ trích Andrew Yang đưa ra nhận xét rằng vào những thời điểm tinh thần bài-Á ở Mỹ lên cao độ, nhiều người gốc Á thiếu điều lấy cờ Mỹ quấn quanh mình; quyên góp giúp đỡ cộng đồng da trắng trong những trường hợp nguy khẩn; họ thậm chí đã bỏ mình vì nước Mỹ trong bao nhiêu cuộc chiến. Và có gì “American” hơn là gia nhập lực lượng cảnh sát? Khi chọn nghề cảnh sát, Tou Thao có bao giờ nghĩ đến chuyện chứng minh mình là “American”?
Xem ra những nỗ lực này vẫn không đủ để ngăn chặn nạn kỳ thị bài-Á hết sức cứng đầu. Kêu gọi mọi người hy sinh nhiều hơn nữa chỉ lặp lại cảm giác người Mỹ gốc Á không phải là “American” và lúc nào cũng phải chứng tỏ mình là “American”, điều lẽ ra không cần thiết. Thời Đệ Nhị Thế Chiến, người Mỹ gốc Nhật đã phải chứng minh mình “American” bằng cách đánh nhau với quân Đức và Nhật trong khi gia đình họ đang bị chính quyền bắt nhốt, nhưng người Mỹ gốc Đức hay Ý không phải chứng minh họ “American” đến mức đó. Tuy cũng có người Mỹ gốc Đức và Ý đã ở tù vì bị tình nghi hoặc vì thật sự không trung thành với nước Mỹ, nhưng chỉ có người gốc Nhật là bị bỏ tù hàng loạt, chủng tộc là đặc điểm duy nhất đánh dấu họ là “không-American”.
Người Mỹ gốc Á kẹt giữa hai lằn đạn, một bên xem ta chẳng khác nào người ngoài, một bên là cám dỗ làm đồng minh với người da trắng trên đất nước được xây dựng bằng khái niệm da trắng thượng tôn. Hậu quả là bệnh kỳ thị người da Đen (và da Nâu cũng như da Đỏ) lây lan sâu rộng trong cộng đồng người Mỹ gốc Á.
Di dân và dân tị nạn, kể cả người Á, hiểu rằng khi leo chiếc thang thành công ở Mỹ họ phải bắt đầu từ những nấc thấp nhất. Nhưng cho dù thấp hèn cỡ nào chăng nữa, họ biết nước Mỹ luôn cho phép họ đứng trên vai người da Đen, da Nâu và thổ dân da Đỏ. Trong lịch sử người Mỹ gốc Á, dân Á Đông bao giờ cũng được người Mỹ trắng và Mỹ đen cho họ cơ hội chọn bên trong cuộc đấu chủng tộc Trắng-Đen, và chúng ta thường chọn bên trắng hơn. Người Mỹ gốc Á, dù tích cực phê phán những hành động bài-Á của thiên hạ, không phải lúc nào cũng lên tiếng chống lại nạn kỳ thị người da Đen. Chúng ta thường nhận mình thuộc nhóm da trắng và chọn đường lối giữ nguyên tình trạng cũ.
Nhưng cũng có một số tiếng nói của người Mỹ gốc Á kêu gọi liên kết cùng người da Đen và những người da màu khác. Từ nhà đấu tranh Yurri Kochiyama, người đã ôm Malcolm X trong lòng trước khi ông tắt thở, cho đến Grace Lee Boggs, định cư tại Detroit và hoạt động hăng say với người chồng da Đen là James Bogg để tổ chức sinh hoạt và công tác lý thuyết.
Kochiyama và Boggs cũng không phải là người gốc Á duy nhất lý luận rằng người Mỹ gốc Á không nên đứng một mình hoặc chỉ cho mình. Cụm từ “Asian American” là do Yuchi Ichioka và Emma Gee đặt ra trong thập niên 1960 và được sử dụng bởi các nhà hoạt động sinh viên, nó được quần chúng biết đến rộng rãi qua một phong trào không chỉ để bảo vệ cộng đồng gốc Á trước nạn kỳ thị hay xác minh một căn cước Á Đông.
Những nhà hoạt động Mỹ-gốc-Á thời đó xem phong trào của họ mang tính cách chống chiến tranh, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản. Lấy cảm hứng từ Hội nghị Bandung năm 1955, cuộc nhóm họp của một số quốc gia Phi châu và Á châu, và từ Mao, họ đặt mình vào giữa cuộc đấu tranh toàn cầu chống lại chủ nghĩa thực dân cùng với những dân tộc bị trị tại các nước thuộc địa. Mao cũng đã tạo cảm hứng cho một số người Mỹ gốc Phi cực đoan, và cuối thập niên 1960 là thời điểm mà các nhà đấu tranh mọi màu da sắc tộc nhìn thấy mình là một phần trong một phong trào của Thế giới Thứ Ba, liên kết sự trỗi dậy của các sắc dân thiểu số với cuộc nổi dậy toàn cầu chống tư bản chủ nghĩa, thực dân, kỳ thị chủng tộc, và chiến tranh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét