Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2020

734 - Chính đề Việt Nam - Phần IV C (tiếp theo)

Ngô Đình Nhu (1910-1963)

KINH TẾ CHỈ HUY

Công cuộc kỹ nghệ hóa, như đoạn trên đây vừa chỉ rõ, tự nó mang đến hai hậu quả. Trước hết là sự kiểm soát của tập thể đối với các lực lượng sản xuất to tát và hùng hậu, bảo vệ trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi của tập thể và quyền lợi của cá nhân. Các kỹ nghệ quốc phòng, các kỹ nghệ có lợi ích công cộng phải đặt dưới sự trực tiếp chỉ huy của chính phủ.

 Hậu quả thứ hai là hệ thống phân phối tự nhiên của xã hội, dựa trên căn bản tổ chức gia đình, không còn đủ bảo đảm công bình xã hội nữa. Sự phân phối phải do tập thể đảm nhiệm, và qua trung gian các cơ quan an ninh xã hội, các lợi tức quốc gia được phân chia, một cách đồng đều hơn, cho mọi phần tử của tập thể. Riêng hai sự kiện trên cũng đủ để chứng minh rằng một nền kinh tế kỹ nghệ đúng nghĩa phải được hướng dẫn, phải được chỉ huy. Đối với một quốc gia đang tìm phát triển, nền kinh tế lại còn cần phải được chỉ huy hơn nữa, vì những lý do dưới đây.

Công cuộc kỹ nghệ hóa là một phần chính yếu trong công cuộc phát triển kinh tế. Công cuộc phát triển kinh tế chính nó là một phần trong công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa. Công cuộc phát triển dân tộc như chúng ta đã biết là một sự nghiệp vĩ đại chỉ có thể thực hiện được với sự tham gia của toàn dân, theo một chương trình phân minh bao trùm các lĩnh vực của đời sống quốc gia và gồm nhiều giai đoạn tiến triển. Thực hiện một chương trình như vậy có nghĩa là phải chấp thuận một sự lãnh đạo có đường hướng và một sự chỉ huy chặt chẽ.

Trong lĩnh vực kinh tế, sự khai triển phải thực hiện bng cách biến đổi nền kinh tế nông nghiệp hiện tại thành một nền kinh tế kỹ nghệ. Muốn như vậy điều kiện cốt yếu là phải trang bị những phương tiện sản xuất kỹ nghệ cho quốc gia, nghĩa là những máy móc sản xuất và những nguồn năng lực để làm chạy các máy móc nói trên. Để mua các máy móc, một phần số vốn xuất ra do viện trợ của các nước. Nhƣng phần lớn số vốn phải do chính các quốc gia muốn khai triển kinh tế xuất ra. Và số vốn này, như chúng ta đã thấy, truất ở lợi tức hằng năm của quốc gia, nghĩa là mỗi phần tử trong tập thể phải truất ra một bách phân, trong số tiền mình làm ra được hằng năm, để bỏ vào quỹ kỹ nghệ hóa, thay vì mang đi tiêu thụ.

Hơn nữa, trong tình trạng hiện hữu, các quốc gia có một nền kinh tế nông nghiệp, như chúng ta, đã có một lợi tức quốc gia rất thấp vì các lực lượng sản xuất nông nghiệp của các quốc gia đó rất yếu. Lợi tức kém, mức sống thấp, nay lại phải truất ra một bách phân trong quỹ tiêu thụ để bỏ vào quỹ kỹ nghệ hóa. Như thế, sự đóng góp vào quỹ kỹ nghệ hóa chỉ có thể thực hiện bằng cách mỗi người phải nỗ lực làm việc nhiều hơn để cho mức sản xuất cao hơn và lợi tức của quốc gia gia tăng, mà mức sống của toàn dân không vì đó mà sụt dưới một mức độ có thể chấp nhận được.

Một công cuộc nỗ lực sản xuất kinh tế như vậy cố nhiên là phải thực hiện theo một chương trình, nghĩa là phải có sự chỉ huy. Sau hết, trong một công cuộc kỹ nghệ hóa, các lĩnh vực kỹ nghệ không thể đồng phát triển cùng một lúc và với một cường độ ngang hàng nhau. Trước hết, phương tiện không đủ, để có thể thực hiện công cuộc kỹ nghệ hóa trong tất cả các lĩnh vực cùng một lúc. Đã như vậy thì, một thứ tự ưu tiên cần phải được đặt ra dựa trên những nhu cầu của tập thể. Và chúng ta đã thấy rằng những nhu cầu của tập thể do hoàn cảnh lịch sử, vị trí địa dư và địa vị quốc tế của quốc gia chi phối.

Nói một cách khác, thứ tự ưu tiên trong các lĩnh vực kỹ nghệ phải được nghiên cứu tỉ mỉ và sau đó tôn trọng một cách trung thành. Như vậy thì công cuộc kỹ nghệ hóa phải được thực hiện theo một chương trình cố định rõ ràng, và như vậy là phải có sự chỉ huy. Các trường hợp đã được phân tích trên đây đều chứng minh rằng nền kinh tế của quốc gia, đang tìm phát triển, phải là một nền kinh tế chỉ huy.

Điều mà chúng ta cần đặc biệt chú ý, là chúng ta đã đi đến kết luận trên đây, không phải sau khi đã phân tích các thuyết kinh tế, đã cân nhắc lợi và hại của mỗi thuyết, và cuối cùng đã chọn một thuyết tối tân và hoàn toàn nhất. Chúng ta cũng không làm một tổng hợp các thuyết kinh tế để dung hòa các chủ trương và rút các tinh túy của nhiều thuyết để làm một toàn bộ. Chúng ta đã không làm cái công việc lý thuyết đó, và chúng ta đã tự ý đặt mình ra ngoài vòng một sự phân tích các thuyết kinh tế vì các công việc ấy, thuộc thẩm quyền các nhà kinh tế học. Chúng ta chỉ có phân tích các sự kiện thực tế của lịch sử đang chi phối trường hợp của chúng ta. Và chính các sự kiện đó đã tạo ra cho chúng ta những điều kiện và những nhu cầu trong lĩnh vực kinh tế mà chúng ta cần phải thỏa mãn. Thái độ của chúng ta ở trong lĩnh vực này, cũng như là thái độ của chúng ta đối với vấn đề chính của dân tộc, trong tập sách này. Thái độ đó có thể không thỏa mãn một lý thuyết, nhưng chắc chắn là thiết thực và sát với sự kiện cụ thể của lịch sử.

Dưới đây chúng ta trở lại một lần nữa về vấn đề kinh tế chỉ huy. Sự chỉ huy đã là một sự hiển nhiên, chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng tính chất của sự chỉ huy và ấn định phân minh giữa giới hạn của sự chỉ huy, mà chúng ta chủ trương.

TÍNH CHẤT VÀ GIỚI HẠN CỦA SỰ CHỈ HUY

Trước hết, sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực kinh tế, sẽ do thái độ chính trị của chúng ta định nghĩa và giới hạn. Trong lĩnh vực chính trị, chúng ta đã chứng minh vì sao trong hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của chúng ta, một chủ trương độc tài không thể áp dụng được, và chỉ mang đến những kết quả thảm hại cho dân tộc. Vì thái độ chính trị đó mà sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực kinh tế, cũng như sự hướng dẫn của chúng ta, trong lĩnh vực tổ chức quần chúng, không thể đi đến mức độ hoàn toàn cưỡng bách đƣợc. Vì thái độ chính trị của chúng ta, nên chúng ta không làm sao sử dụng được những biện pháp độc tài để khắc phục cho kỳ được, sự tham gia thật sự nhưng cưỡng bách của nhân dân vào các công cuộc của quốc gia. Đã không khắc phục được sự tham gia của nhân dân bằng những phương pháp hoàn toàn cưỡng bách, thì chúng ta phải khắc phục sự tự ý tham gia của nhân dân.

Cũng như trong lĩnh vực tổ chức quần chúng, nếu quần chúng không tham gia thì các tổ chức quần chúng không còn lý do tồn tại nữa. Trong lĩnh vực kinh tế, nếu không có sự tham gia của nhân dân, bằng sáng kiến, bằng tư bản và bằng kỹ thuật kinh doanh thì kinh tế không phát triển được. Nhận xét trên đây ấn định rõ ràng giới hạn của sự chỉ huy mà chúng ta chủ trương. Sự chỉ huy kinh tế của chúng ta sẽ ở trong giới hạn lập các kế hoạch phát triển kinh tế, phân loại các khu vực cần được quốc hữu hóa, tạo hoàn cảnh thuận lợi, trang bị phương tiện và kiểm soát. Công việc điều khiển và khuếch trương các doanh nghiệp trong các lĩnh vực không quốc hữu hóa, phải được giao hoàn toàn cho sáng kiến, kỹ thuật và tư bản của tư nhân. Sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực kinh tế, không thể vượt ra ngoài giới hạn ấn định trên đây được.

Bởi vì, nếu chúng ta vượt ra ngoài phạm vi đó, chúng ta sẽ không có sự tham gia của nhân dân, trong các công cuộc dự tính của quốc gia, trong lĩnh vực kinh tế, ngoại trừ một sự tham gia cưỡng bách. Nhưng thái độ chính trị mà chúng ta đã lựa chọn, không cho phép chúng ta sử dụng những biện pháp khả dĩ để khắc phục đƣợc một sự tham gia cưỡng bách như vậy.

Tóm lại, trong lĩnh vực kinh tế, các chương trình phát triển phải được đặt dƣới sự chỉ huy của chính phủ, ngoài những khu vực sẽ do chính phủ trực tiếp phụ trách. Tính cách cần thiết của sự chỉ huy do các yếu tố dưới đây tạo ra:

1.- Phòng ngừa một sự tập trung trong tay một thiểu số, những phương tiện sản xuất to tát có thể trở thành một mối đe dọa cho tập thể.
2.- Bảo đảm một sự phân phối lợi tức quốc gia một cách công bình giữa các phần tử trong tập thể.
3.- Bảo đảm một sự gây vốn cho quỹ kỹ nghệ hóa quốc gia.
4.- Bảo đảm một công cuộc kỹ nghệ hóa đúng nhu cầu của tập thể.

Nhưng sự chỉ huy phải được giới hạn trong phạm vi ấn định bởi thái độ chính trị của chúng ta. Và vì thái độ này mà chúng ta không thể sử dụng được nhiều biện pháp khả dĩ khắc phục được sự tham gia cưỡng bách của nhân dân vào các công cuộc dự tính của tập thể...

Trên đây nhiều lần chúng ta đã đề cập đến những khu vực, trong đó các công cuộc phát triển kinh tế phải được quốc hữu hóa. Lý do chính yếu của sự quốc hữu hóa một ngành kỹ nghệ là đề phòng sự kiện những phƯơng tiện sản xuất của ngành kỹ nghệ đó, tập trung trong tay một thiểu số, biến thành một mối đe dọa cho tập thể. Hiểu một cách hẹp thì tất cả các kỹ nghệ quốc phòng, hay trực tiệp liên hệ đến quốc phòng, phải là những kỹ nghệ được đặt dƣới quyền điều khiển trực tiếp của quốc gia. Trong các loại thứ nhất, có những xí nghiệp về năng lựợng, những xí nghiệp kỹ nghệ nặng, những xí nghiệp về nguyên tử và những xí nghiệp về điện tử, ngoại trừ những máy điện tử thông dụng. Các xí nghiệp chuyên chở đại quy mô thuộc vào loại thứ hai. Tuy nhiên, tính cách liên hệ đến quốc phòng thiết yếu nhiều hay ít, biến đổi tùy theo tình hình chính trị. Đối với các loại thứ nhất, chính phủ có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển thường xuyên và liên tục. Đối với các loại thứ hai, sự trực tiếp điều khiển chỉ là giai đoạn.

Hiểu một cách rộng, sự đe dọa đối với tập thể chẳng cứ trong phạm vi quân sự, quốc phòng mới có. Khi nào có sự tập trung trong tay một thiểu số những phương tiện sản xuất liên quan đến đời sống của nhiều người, thì có một trường hợp đe dọa cho tập thể. Vì vậy cho nên, việc quốc hữu hóa phải lan rộng đến các khu vực kỹ nghệ cung cấp cho những nhu cầu thông thường những thiết yếu cho đa số. Ví dụ, các xí nghiệp sản xuất dược phẩm và các xí nghiệp sản xuất vải sợi. Tuy nhiên trong những trường hợp này, sự quốc hữu hóa không cố định và thường xuyên.

Nguyên tắc cần phải được tôn trọng là sự thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể lúc nào cũng phải được giữ vững. Nhưng lúc nào những nhu cầu sơ đẳng của đa số chưa được thỏa mãn, thì kỹ nghệ liên hệ phải được đặt dưới sự trực tiếp điều khiển của chính quyền. Trái lại, lúc nào vì mức sản xuất đã đủ dồi dào để bảo đảm cho nhu cầu của tập thể, những kỹ nghệ liên hệ có thể bằng nhiều hình thức tài chính, trả về cho phạm vi tư nhân. Một thái độ kinh tế như thái độ chúng ta chủ trương trên đây, phức tạp và khó thực hiện hơn là thái độ một chiều: hoặc hoàn toàn giao cho sáng kiến tư nhân hay hoàn toàn quốc hữu hóa.

Thái độ chúng ta chủ trương, không phải là một thái độ dung hòa giữa hai thái độ cực đoan, mà là một trạng thái thăng bằng động tiến giữa hai yếu tố đối chọi: Quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể. Một thái độ dung hòa là một thái độ tỉnh, nhu nhược và không chính xác; giữ vững một trạng thái thăng bằng động tiến là một cố gắng không ngừng, để tìm cho đúng vị trí thăng bằng lúc nào cũng xê dịch và lúc nào cũng thay đổi. Và chính vì thế mà thái độ kinh tế của chúng ta phức tạp. Nhưng cũng chính vì thế mà thực hiện được sự thăng bằng động tiến là tìm được lối sống.

KHỐI KINH TẾ

Trong một xã hội, sống trên một nền kinh tế nông nghiệp, đơn vị hoạt động kinh tế đương nhiên là gia đình. Trong một xã hội sống trên một nền kinh tế kỹ nghệ, đơn vị hoạt động kinh tế vô định. Những lực lượng sản xuất kỹ nghệ hùng hậu cho đến đỗi nhu cầu của khắp nhân loại có thể thỏa mãn được. Như vậy thì đáng lý ra đơn vị hoạt động kinh tế của một xã hội đã kỹ nghệ hóa là tất cả nhân loại. 

Nhưng, như chúng ta đã biết, đồng thời với sự bành trướng của các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, ý thức chủ quyền quốc gia, xây dựng trên tinh thần dân tộc, cũng truởng thành một cách mạnh mẽ không kém. Xu hướng của các lực lượng sản xuất kỹ nghệ là bỏ hết các ranh giới địa phương để tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế bao trùm hết nhân loại. Ngược lại xu hướng của ý thức chủ quyền quốc gia là đặt những ranh giới bất khả xâm phạm phân chia nhân loại thành những khối người cùng ngôn ngữ, một di sản tinh thần và một quyền lợi.

Đối với nhân loại ngày nay, ý thức chủ quyền quốc gia là một lực lượng tinh thần mà khả năng không kém lực lượng sản xuất kỹ nghệ, trên phương diện vật chất. Hai lực lượng đó hoạt động theo những chiều hướng trái ngược với nhau. Cho đến ngày nay, xét theo các sự kiện lịch sử, thì lực lượng tinh thần của ý thức chủ quyền quốc gia vẫn thắng thế. Vì vậy cho nên, trên khắp thế giới, các đơn vị hoạt động kinh tế phải uốn mình theo các ranh giới lãnh thổ quốc gia.

Như thế nếu ranh giới các quốc gia càng rộng, thì tầm hoạt động kinh tế càng thích nghi với bản chất các lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Ngược lại nếu ranh giới các quốc gia càng hẹp thì tầm hoạt động càng đi ngược với bản chất và các lực lượng sản xuất càng mất hiệu lực.

Vì lý do trên đây mà ngày nay chúng ta mục kích hai việc. Trước hết các khối kinh tế hùng mạnh là các quốc gia kiểm soát một lãnh thổ rộng lớn và một dân số trù mật, và đương nhiên có một đơn vị hoạt động kinh tế vừa tầm cho các lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Các đế quốc sau khi trả độc lập cho các dân tộc bị trị, đương nhiên phải thu hẹp phạm vi vùng kiểm soát chính trị của mình. Nhưng đồng thời, các đế quốc cũ tìm đủ mọi cách để duy trì một phạm vi hoạt động kinh tế rộng lớn, dưới hình thức những Liên Hiệp, hoặc những chương trình viện trợ hỗ tương.

Một mặt khác, các quốc gia có lãnh thổ nhỏ và dân số ít cũng tìm cách liên kết với nhau, dưới những hình thức cộng đồng, để có thể tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế rộng lớn chung, thích hợp với bản chất các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, đồng thời vẫn tôn trọng ý thức chủ quyền quốc gia mà lịch sử đã thừa nhận. Giải pháp sau này là giải pháp mà các quốc gia nhỏ và yếu như chúng ta hiện nay, cần phải áp dụng. Những thành kiến về chủng tộc, sự bất đồng ngôn ngữ, những di sản tinh thần chung, sẽ còn duy trì ý thức chủ quyền quốc gia trong nhiều giai đoạn lịch sử.

Và sự hợp nhất về chính trị, của dân tộc ở chung trong một vùng hoạt động kinh tế, sẽ còn phải trải qua rất nhiều thế hệ mới có thể thực hiện được. Ngược lại, một sự hợp tác về kinh tế với hình thức một Liên bang hay một cộng đồng, trong đó chủ quyền của mỗi quốc gia vẫn được tôn trọng, trong phạm vi chính trị, là điều kiện thiết yếu để tạo những đơn vị hoạt động kinh tế có thể đứng vững được. Sự liên kết các quốc gia, thành một vùng kinh tế thịnh vượng chung là một việc không thể phủ nhận. Nhưng chúng ta không nên quên rằng, lý do thiết yếu nhất để bênh vực sự liên kết nói đây là để tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế thích nghi với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ.

Như vậy thì, sự liên kết chỉ cần thiết khi nào các lực lượng sản xuất kỹ nghệ đã hoạt động. Nếu liên kết được để thành lập và thực hiện một chương trình sản xuất kỹ nghệ chung, thì lại còn quý hơn nữa. Nhưng với tinh thần dân tộc rất cao và ý thức chủ quyền quốc gia rất dễ đụng chạm của các nước mới thâu hồi độc lập, việc liên kết trước khi các lực lượng sản xuất hoạt động cụ thể, khó mà thực hiện được. 

Do đó, vấn đề kỹ nghệ hóa riêng cho từng quốc gia, vẫn là vấn đề tiên quyết cho mọi sự liên kết thành khối kinh tế thịnh vượng chung cho các quốc gia ở cùng một vùng. Nhưng sự liên kết là một yếu tố quyết định cho công cuộc phát triển kinh tế, vừa cho chung tất cả vùng, vừa cho từng quốc gia một trong vùng.


(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét