Trong bài này, tôi sẽ đề cập đến hai nội dung. Thứ nhất là sự bối rối, bất nhất trong chính sách xuất khẩu lúa gạo ngay lúc này. Thứ hai, từ đó thảo luận tính lộn xộn, thiếu chuyên nghiệp trong việc ra các chính sách quan trọng hiện nay.
1. VỀ CHÍNH SÁCH LÚA GẠO:
Trong bối cảnh các nước lo ngại sẽ thiếu lương thực trong đại dịch, do tâm lý người dân muốn đầu cơ tích trữ, hoặc có thể do hoạt động kinh tế suy giảm, dẫn tới sản lượng giảm, nhiều nước bắt đầu thu gom gạo quy mô lớn. Ví dụ con số ấn tượng là Trung Quốc gần đây tăng mua gấp 7 lần cùng kỳ (ai đó check lại hộ số liệu này, tôi vừa đọc đâu đây lúc sáng, hình như trong bài điểm tin của Tran Trong An). Thường trực Chính phủ đã họp gấp vào ngày 23/3 (hôm qua), và sau đó Văn phòng CP đã ra một thông báo HỎA TỐC trong đó mô tả khá chi tiết nội dung thảo luận của cuộc họp liên quan đến nỗi lo lắng về an ninh lương thực của nước ta. Đặc biệt phải kể đến tình hình khô hạn và ngập mặn ở ĐBSCL khiến sản lượng vụ tới có thể suy giảm. Sau đó, Thông báo kết luận bằng một chỉ đạo lập tức dừng xuất khẩu gạo, trên cơ sở tham mưu của Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh.
Lệnh này ngay lập tức đã được thi hành hết sức nghiêm túc ở các cửa khẩu (Hải quan phụ trách).
Nhưng ngay ngày hôm sau (tức là hôm nay, 24/3), Bộ trưởng Trần Tuấn Anh lại có một công văn HỎA TỐC gửi Thủ tướng CP đề nghị rút lại lệnh cấm xuất khẩu gạo. Nội dung công văn cho thấy dường như Bộ trưởng chịu sức ép từ phía các DN xuất khẩu gạo và các nhà sản xuất gạo. Và tôi nghĩ lần này các DN đã đúng.
Việc này cho thấy việc ra chính sách này trong trạng thái vội vã, tùy tiện và bất nhất.
Lại nhớ năm 2008, giá gạo thế giới tăng cao từ đầu năm, và đến khoảng tháng 4-5 thì giá tăng dữ dội (theo thống kê của GSO, chỉ trong 1 tháng (từ tháng 4 sang tháng 5), giá gạo trong nước đã tăng thêm 36%). Giá gạo thế giới cũng tăng chóng mặt và nguy cơ thiếu hụt gạo hiện hữu toàn cầu. Việt Nam đã vội vã đóng cửa thị trường xuất khẩu gạo để bảo vệ thị trường trong nước. Sau đó, cơn sốt gạo qua đi, mọi việc trở lại bình thường, thậm chí giá gạo lại xuống thấp theo các chu kỳ lên xuống của ngành hàng nông nghiệp.
Giới kinh doanh đánh giá Việt Nam đã đánh mất một cơ hội xuất khẩu gạo với khối lượng lớn và giá rất tốt. Sau này, nhiều chuyên gia cũng đánh giá là ở Việt Nam, gạo là mặt hàng mà nguồn cung có thể được bổ sung sau 3-4 tháng, nên việc lo sợ quá mức về thiếu hụt nguồn cung đã dẫn tới việc đánh mất cơ hội cho cả người sản xuất lúa gạo (nông dân) lẫn các nhà xuất khẩu.
Trong thông báo của Chính phủ ngày 23/3/2020 (hôm qua), cũng có đề cập tới nguy cơ giá gạo tăng cao có thể đẩy lạm phát lên cao, gây bất ổn kinh tế vĩ mô. ĐIều này dường như đã xảy ra vào năm 2008. Tuy nhiên, như tôi đã một vài lần phân tích, lạm phát phi mã của năm 2008 thực chất bắt nguồn từ chính sách tiền tệ sai lầm vào cuối năm 2007 do không trung hòa lượng đô la đã được mua vào ồ ạt trước đó. Việc lạm phát tiền tệ là thùng dầu tạo nên ngọn lửa lạm phát 2008, chứ không phải giá gạo cao năm đó. Tất nhiên giá gạo có tăng cao giống như đổ thêm xăng vào thùng dầu đang cháy, nhưng điều quan trọng cần biết là thùng dầu đã cháy mới là cốt tử.
Năm nay, nếu giả sử giá gạo tăng 30% liên tục trong nửa năm, thì đóng góp của nó vào mức tăng CPI có lẽ chỉ khoảng 1,5%, hoàn toàn chấp nhận được trong bối cảnh lạm phát của Việt Nam được kiểm soát tương đối tốt trong những năm qua (chủ yếu do chính sách tiền tệ chặt chẽ).
Nói chung, viết ra thì dài, nhưng tựu chung là, vì gạo là một mặt hàng Việt Nam có thể chủ động nguồn cung trong những chu trình 3-4 tháng, nên việc cầu lúa gạo thế giới đột ngột tăng cao, Việt Nam nên tranh thủ đón ít nhất là sóng đầu tiên. Tức là Việt Nam nên bình tĩnh, chủ động với đợt sóng tăng giá, tăng lượng mua này, và xuất khẩu gạo theo làn sóng đó để thu lợi nhuận. Giá cả và nhu cầu có thể tăng dần, thậm chí tăng mạnh, trong các tháng 4-5, chúng ta vẫn nên chủ động đi theo con sóng đó.
Tất nhiên giá trong nước cũng có khuynh hướng tăng theo. Nhưng như tôi đã phân tích, việc tăng giá gạo nội địa cơ bản là lợi nhiều hơn hại, vì tầng lớp được hưởng lợi căn bản vẫn là nông dân và ngành nông nghiệp. Các nhóm khác có thể bị thiệt vì giá gạo tăng lên, nhưng gạo chỉ chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ trong ngân sách của họ. (Khác với thời vua Minh Mạng khi Lê Văn Duyệt liên tục xuất khẩu gạo trong miền Nam, đã khiến nổ ra loạn lạc ở Bắc Hà, vì khi đó ngân sách của người dân chủ yếu dành để mua gạo.)
Nếu đến mùa sau, việc cung ứng gạo trong nước có dấu hiệu mất cân đối trầm trọng, đặc biệt với tình hình sản lượng giảm do điều kiện thời tiết (nhưng sản lượng này vẫn sẽ luôn luôn lớn hơn tổng lượng tiêu thụ nội địa), thì lúc đó, mới cần cân nhắc điều tiết xuất khẩu. Tôi muốn nhấn mạnh là điều tiết xuất khẩu thôi, còn việc đóng cửa thị trường xuất khẩu là một tình huống cực đoan. Vì về nguyên tắc, do sản lượng gạo của nước ta luôn vượt quá cầu trong nước, nên việc đóng cửa thị trường xuất khẩu thực chất sẽ chắc chắn bảo đam an ninh lương thực và bình ổn giá gạo (nhưng sẽ phải đối phó với vấn nạn xuất khẩu lậu hết sức mãnh liệt).
Tóm lại, tôi cho rằng việc vội vã ra lệnh đóng cửa thị trường xuất khẩu gạo vào thời điểm này, chỉ sau một cuộc họp của Thường trực Chính phủ, là hết sức vội vàng, thiếu cân nhắc, thiếu tầm nhìn, thiếu tính toán, và do đó, là thiếu trách nhiệm.
Hành động Bộ trưởng Trần Tuấn Anh chỉ trong vòng chưa đầy 24 giờ đồng hồ đã gửi một công văn Hỏa tốc lên Thủ tướng cho thấy các tính chất tôi vừa nêu ở trên trong quyết sách vừa rồi.
Đề nghị Thủ tướng lập tức rút lại việc can thiệp vào lúc này đối với thị trường gạo nói chung, xuất khẩu gạo nói riêng. Chính phủ cần tiếp tục quan sát, theo dõi thị trường và ra những quyết định theo lộ trình, có bài bản, bình tĩnh, sáng suốt và THỰC DỤNG. Đây là một cơ hội tốt cho không chỉ nông nghiệp Việt Nam phục hồi trong mùa dịch, mà còn cải thiện vị thế của Việt Nam như một nước luôn xuất khẩu ròng lúa gạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét