Hôm đó là ngày 9 tháng 10, 1944, Thủ tướng Anh Winston Churchill đến Moscow gặp Joseph Stalin để bàn về tương lai của các quốc gia vùng Balkans. Bán đảo Balkans là khu vực địa lý bao gồm các quốc gia ở phía nam Châu Âu giữa Biển Adriatic và Địa Trung Hải trong đó có những quốc gia nằm hẳn hay nằm một phần trong bán đảo như Albania, Bulgaria, Hy Lạp, Romania, Thổ Nhĩ Kỳ v.v…
Chuyến viếng thăm lịch sử này được ghi lại trong cuốn thứ sáu của bộ sách về Thế Chiến Thứ Hai của Winston Churchill (The Second World War. Volume VI, Triumph and Tragedy by Winston Churchill).
Vào buổi tối ngày đầu sau khi đến Churchill nói với Stalin: “Cho đến nay, như Anh và Nga quan tâm, làm thế nào để Nga có được 90% ưu thế tại Romania, để chúng tôi có 90% Hy Lạp, và 50-50 Nam Tư?”
Trong khi chờ thông dịch viên dịch, Churchill viết ra những đề nghị đó chi tiết hơn trên nửa tờ giấy và đưa cho Stalin. Theo lời của Churchill: “Tôi chuyển mảnh giấy nhỏ cho Stalin. Ông ta cũng vừa nghe xong lời dịch. Có một khoảng im lặng ngắn. Sau đó, Stalin lấy cây bút chì màu xanh của mình và đánh một dấu lớn trên nó, và chuyển lại cho tôi. Tất cả đã được giải quyết trong thời gian không quá lâu. Sau đó là một khoảng lặng dài. Tờ giấy và cây bút chì nằm ở giữa bàn.”
Nội dung nửa tời giấy như sau:
Romania:
. Nga 90%
. Các quốc gia khác 10%
Hy Lạp:
. Anh (cùng với Mỹ): 90%
. Nga: 10%
Nam Tư: 50-50%
Hungary: 50-50%
Bulgaria:
. Nga 75%
. Các quốc gia khác: 25%
Churchill cũng lo ngại một ngày mảnh giấy đó được tiết lộ ra ngoài sẽ tạo nên những hoài nghi trong những người mà số phận của họ đã bị những cường quốc bên ngoài quyết định. Nghĩ vậy, ông ta đề nghị với Stalin nên đốt mảnh giấy đó đi, nhưng Stalin không cho đó là quan trọng và đáp: “Không, ông cứ giữ mảnh giấy đó.”
Trong thời điểm 1944, các dân tộc vùng Balkans hoàn toàn không biết rằng dù có thắng Hitler, số phận của họ cũng đã bị ký thác vào tay một đồ tế khác độc tài và tàn bạo không kém là Stalin.
Tài liệu đó dưới góc nhìn của các dân tộc Romania, Bulgaria, Hungary, Nam Tư và các nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc bị tác động dây chuyền là một bằng chứng cho sự phản bội của đồng minh.
Tuy nhiên, trong quan điểm của Churchill, Romania là một thảm kịch không tránh khỏi sau Thế Chiến Thứ Hai. Trong nhãn quan của các nhà nghiên cứu địa lý chính trị, Romania trong vị trí vùng độn giữa hai khối thế lực CS và Tự Do, đã không có con đường nào thoát. Churchill dù không đổi chác thì quân đội Stalin cũng đã chiếm Romania trước đó rồi.
Không có tài liệu cho thấy Stalin dựa vào những điểm lợi nào để đồng ý Hy Lạp thuộc về Anh và các quốc nước vùng Balkans thuộc về Liên Xô. Tuy nhiên, về phía Churchill ý định của ông tương đối rõ ràng. Churchill đứng trước một chọn lựa: giữ các nước vùng Địa Trung Hải và hy sinh phần Đông Âu cho Stalin.
Anh và Mỹ ngoài một số nhân viên tình báo không có lực lượng quân sự nào đáng kể tại Đông Âu.
Nếu năm 1942, Đồng Minh đổ bộ Balkans thay vì đổ bộ Bắc Phi thì khuôn mặt thế giới sau Thế Chiến Thứ Hai đã khác, Bức Màn Sắt cũng như Chiến Tranh Lạnh có thể không có. Nhưng đó chẳng qua là bàn chuyện đã rồi.
Mảnh giấy mà chúng ta thường gọi là “giấy lộn” chỉ hơn mười chữ được Churchill giữ lại là một trong những tài liệu đổi chác lãnh thổ quan trọng nhất của Thế Chiến Thứ Hai.
Hành động đơn giản như trò chơi giữa hai đứa trẻ nhưng đã quyết định số phận của bảy quốc gia (Tiệp, Ba Lan, Romania, Albania, Bulgaria, Nam Tư, Hungary) chưa tính Đông Đức, suốt 46 năm với không biết bao nhiêu nghèo nàn, chết chóc, ngục tù và chịu đựng.
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Về địa lý chính trị, vị trí Việt Nam cạnh Trung Cộng giống như vị trí của Romania cạnh Liên Xô trong Thế Chiến Thứ Hai.
Trong số mười xung đột nóng ở Á Châu hiện nay, Biển Đông và Đài Loan là hai điểm nóng nhất. Chiến tranh trong khu vực này sớm hay muộn cũng xảy ra.
Chính sách bành trướng bất chấp luật pháp quốc tế từ khi lên nắm quyền tới nay cho thấy Tập Cận Bình đang quyết tâm thôn tính vùng Biển Đông trù phú tài nguyên và kiểm soát đường hải hành huyết mạch của Á Châu. Y chạy đua với thời gian để thiết lập các “status quo” trên Biển Đông trước khi các liên minh quân sự trong vùng đủ mạnh để gây áp lực.
Theo tài liệu của Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại (Council on Foreign Relations), một “think tank” chính trị đặt tại Washington D.C., cho tới năm 2018, Trung Cộng đã hoàn tất xây dựng bảy đảo nhân tạo, 20 căn cứ quân sự và chiếm 3,200 mẫu diện tích Biển Đông.
Mục đích chạy đua của Trung Cộng là Mỹ chứ không phải Nhật, Ấn hay các nước nhỏ trong vùng. Mặc dù miệng thỉnh thoảng đánh võ mồm, để đạt mục đích, Trung Cộng cần ổn định hơn quốc gia nào khác.
Nhưng trong tương lai nếu phải mở ra một cuộc chiến tranh giới hạn nhằm răn đe các nước nhỏ trong vùng, làm nguội chảo dầu Đại Hán tại lục địa và dập tắt các mâu thuẫn trong nội bộ đảng CSTQ như Mao đã làm trong Chiến Tranh Triều Tiên và Đặng đã làm trong Chiến Tranh Biên Giới Việt-Trung, Tập hay những kẻ cai trị kế y sẽ chọn kẻ thù nào?
Đài Loan chăng? Thôn tính Đài Loan, Tập không tiên liệu được hậu quả. Vì lý do có Mỹ đứng sau lưng và sẵn sàng can thiệp bằng các phương tiện chiến tranh hiện đại như đã được bảo đảm trong Đạo Luật Quan Hệ Đài Loan 1979, Trung Cộng chưa dám đụng đến quốc đảo này.
Đối tượng còn lại là CSVN.
Bài học Chiến Tranh Biên Giới 1979 cho giới cai trị Bắc Kinh biết dù chớp nhoáng và giới hạn, “trừng phạt” võ trang với CSVN trong lần tới phải xử dụng sức mạnh của không và hải lực. Khi Hội Đồng Bảo Anh LHQ nhóm họp để bàn về lá thư phản đối của CSVN thì Tập tuyên bố “cuộc trừng phạt giới hạn xong rồi”.
Ai sẽ cứu Việt Nam? Khỏi cần tìm hiểu gần xa, một người có nhận thức chính trị căn bản nào cũng trả lời được ngay là không ai cứu cả. Không ai cứu một người mà người đó không muốn tự cứu lấy chính mình.
Tạm gác qua bên cuộc chiến nhuộm đỏ Việt Nam, CSVN có hơn 45 năm để đưa đất nước vừa chấm dứt chiến tranh thành một quốc gia vững mạnh ở Á Châu. Nhưng bao thế hệ giới cai trị CS Việt Nam đã không làm được.
Lý do chỉ vì cơ chế. Một con tàu to lớn đầy ắp tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động và tiềm năng kinh tế, kỹ thuật lại chạy bằng chiếc máy cũ được chế tạo tại Nga tròn 103 năm trước. Đầu máy xe lửa đó đang được đặt trong các bảo tàng viện Đông Âu, riêng tại Việt Nam vẫn còn khói tuôn mù mịt mỗi ngày.
Sở dĩ Churchill bảo vệ Hy Lạp vì ngoài vị trí chiến lược, ông tin phe cộng hòa tại quốc gia này đủ mạnh để có thể thắng CS. Nếu năm 1944, Hy Lạp đã là một nước CS và đặt dưới cai trị của một đảng CS chuyên chính, chỉ biết phục tùng đảng mẹ Liên Xô như đảng CSVN đối với Trung Cộng ngày nay, thì Churchill có thể đã phải tìm phương án khác.
Khi phân tích hoàn cảnh lịch sử thời Thế Chiến Thứ Hai, một số nhà sử học cho rằng nếu người dân Romania muốn đổ lỗi thì thay vì đổ lỗi cho Anh, Mỹ trước hết họ nên đổ lỗi lên đầu giới lãnh đạo Romania bán nước thời đó đứng đầu là Ion Antonescu.
Tên phản quốc Antonescu này là một tay sai trung thành của Hitler. Tháng Ba, 1944, y có cơ hội đầu hàng Anh trước khi Romania bị Liên Xô tấn công trên đường tiến qua Đức. Nhưng không. Tham vọng quyền lực đã làm Antonescu thành mù lòa và y đã theo lệnh Hitler để từ chối tối hậu thư của Anh.
Sau khi đánh bại Đức và chế độ Antonescu thân Đức, Liên Xô nắm toàn quyền sinh sát trên số phận của Romania. Antonescu bị bắt giữ và bị kết án xử bắn vì nhiều tội trong đó có trọng tội phản bội tổ quốc Romania. Trước khi trách người, dân tộc Romania nên tự trách mình đã để yên cho tên độc tài bán nước Antonescu “rước voi” Hitler “về giày mả tổ” Romania.
Romania chịu đựng dưới ách CS gần nửa thế kỷ là bài học cho người Việt quan tâm đến tương lai đất nước. Không chỉ sau Thế Chiến Thứ Hai mà cả Cách Mạng Hungary 1956, Mùa Xuân Prague 1968 đều bị Anh, Mỹ làm ngơ ngoài những lời tố cáo Liên Xô lấy lệ tại Liên Hiệp Quốc. Nhưng các dân tộc Đông Âu không tuyệt vọng, không nản chí, không ngồi chờ mà đã bằng nhiều cách vươn lên và cuối cùng đã thoát ra khỏi xích xiềng CS.
Nguồn: https://baotiengdan.com/2020/11/29/manh-giay-lon-cua-churchill-va-so-phan-bay-nuoc-dong-au/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét